Chuyển đến nội dung chính

PHẦN 10 BÀN VỀ VÒNG TRƯỜNG SINH VÀ CÁC SAO CÒN LẠI TRONG TỬ VI


     10.1. Bàn về vòng TRƯỜNG SINH
     Muốn có vòng TRƯỜNG SINH, ta phải biết vị trí an cung Mệnh, vô hình chung đã vận dụng tháng và giờ sinh. Tiếp căn cứ vào Can của năm sinh. Ta lại có cục (tức là cuộc) tùy theo cục thuộc hành gì ta có vị trí an TRƯỜNG SINH. Như thế muốn an vòng TRƯỜNG SINH ta có 3 yếu tố giờ, tháng, năm tính theo Can. Tùy thuộc cục gì căn cứ vào ngày sinh, ta lại an được sao TỬ VI.
     Thủy Nhị Cục và Thổ ngũ cục an tại Thân;
     Mộc Tam Cục an tại Hợi;
     Kim Tứ Cục an tại Tị;
     Hỏa Lục Cục an tại Dần.
    Nếu như vòng LỘC TỒN thiên về nghề nghiệp và sự tồn vong. Vòng THÁI TUẾ thiên về tính cách con người và có tính thọ. Vòng TRƯỜNG SINH thiên về sức khỏe. Đừng hiểu lầm giữa sức khỏe và tuổi thọ. Một người sức khỏe kém nhưng vẫn thọ, một người sức khỏe tốt lại yểu. Hai vòng này bổ sung cho nhau là hợp cách.
    Tùy theo tuổi, như Giáp Ất Canh Tân có khi có 3 vòng này tại Mệnh. Các tuổi còn lại tối đa chỉ có may mắn là 2 vòng mà thôi. Tất nhiên có người lại không may mắn có cả 3 vòng sao này.
     Vòng TRƯỜNG SINH và LỘC TỒN luôn luôn đi cùng chiều với nhau, cùng xuôi hay cùng ngược. Dù xuôi ngược như thế nào chu kỳ của nó vẫn là TRƯỜNG SINH, MỘC DỤC, QUAN ĐỚI, LÂM QUAN, ĐẾ VƯỢNG, SUY, BỆNH, TỬ, MỘ, TUYỆT, THAI và DƯỠNG. Quan trọng là vị trí đóng tại đâu, khởi hành từ đâu.
     Qua thực tế chiêm nghiệm những lá số TỬ VI Mệnh đóng ở các vị trí THAI, DƯỠNG, TRƯỜNG SINH được xem là hay nhất, kế đó là MỘC DỤC, QUAN ĐỚI, LÂM QUAN, ĐẾ VƯỢNG. Nhưng vị trí còn lại kém hay là SUY, BỆNH, TỬ, MỘ, TUYỆT.
     Ý nghĩa của vòng TRƯỜNG SINH là vòng đời, cũng như quan niệm của Phật giáo Sinh Lão Bệnh Tử. Nó bắt nguồn từ bào thai với tên là THAI. Từ bào thai sinh ra đứa bé được nuôi nấng gọi là DƯỠNG với nghĩa nuôi dưỡng. Vào tuổi thiếu niên sự sống rõ ràng vững chắc và đã trở thành 1 sinh đồ (học trò) mang tên TRƯỜNG SINH với nhiều sức sống. Sau đấy lại biết làm duyên dáng tắm gội vào tuổi dậy thì, gọi là MỘC DỤC. Tiếp đến lo việc công danh, tìm việc mang tên LÂM QUAN, đeo đuổi công việc đó gọi là QUAN ĐỚI, tất nhiên mỗi ngày mỗi có địa vị đươc gọi là ĐẾ VƯỢNG nơi thịnh vượng nhất của cuộc đời, cũng là nơi sức khỏe đạt đỉnh. Khi đến đỉnh là dấu hiệu suy sụp đã bắt đầu. Người ta gọi là SUY với nghĩa suy sụp. Từ đó cơ thể dễ bị BỆNH tật xâm nhập, chuyển qua cái chết, vì thế mới gọi là TỬ, một nấm mồ được xây lên 
gọi là MỘ.
     Thời gian làm đổi thay tất cả, nấm mồ ấy cũng chẳng còn, thiên nhiên đã lấy lại như thuở ban đầu, đến đây thì mất hẵn. Vì thế gọi là TUYỆT với nghĩa mất hẵn. Và vòng đời lại tiếp tục trở lại với sao THAI. Cũng như mọi sinh vật con người cũng thế, vòng đời con người có thể đạt đến 120 năm, nhưng nào mấy ai có được vì rơi vào TỬ MỘ TUYỆT. Nếu Mệnh đóng tại TRƯỜNG SINH thì cũng 80 năm sau đã qua chữ TỬ. Nếu đóng ở THAI có thể đến cả 100 năm. Vì thế nếu Mệnh đóng tại vị trí TỬ MỘ TUYÊT nếu qua được tuổi thọ có thể rất là dài. Vì đến hạn 60 họ mới đạt chữ TRƯỜNG SINH cứ như là cải lão hoàn đồng.
     Khi đau yếu bệnh hoạn càng quan tâm vị trí TRƯỜNG SINH nhiều hơn.
     10.2. Phương pháp an các sao cố định trong Tử Vi
     Có 4 ngôi sao được an cố định tại các cung trong Tử Vì là: 
     THIÊN THƯƠNG, THIÊN SƯ, THIÊN LA ĐỊA VÕNG trong đó:
     THIÊN THƯƠNG: luôn an cố định tại cung Nô Bộc;
     THIÊN SỨ: luôn an cố định tại cung Tật Ách;
     THIÊN LA: luôn an cố định tại cung Thìn;
     ĐỊA VÕNG: luôn an cố định tại cung Tuất.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...