Chuyển đến nội dung chính

PHẦN 6 PHƯƠNG PHÁP AN CHÍNH TÍNH


     6.1. Yêu cầu
     Để an được toàn bộ 14 Chính tinh cần nhớ được kiên thức thuộc các nội dung: “Các thuật ngữ cơ bản trong Tử vi” và “Phương pháp an ngôi sao TỬ VI”. 
     6.2. Định danh 14 Chính tinh
     Mười bốn Chính tinh trong Tử Vi thuộc hai vòng;
     Vòng Tử Vi tinh hệ: gồm có 06 sao; TỬ VI, LIÊM TRINH, THIÊN ĐỒNG, VŨ KHÚC THÁI DƯƠNG và THIÊN CƠ.
     Vòng THIÊN PHỦ tinh hệ: gồm 08 sao; THIÊN PHỦ, THÁI ÂM, THAM LANG, CỰ MÔN, THIÊN TƯỚNG, THIÊN LƯƠNG, THẤT SÁT, PHÁ QUÂN.
     6.3. Các bộ và nhóm sao cơ bản
     Mười bốn Chính tinh trong Tử Vi được chia ra thành 4 bộ:
     - Bộ 05 sao: TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM;
     - Bộ 04 sao CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG;
     - Bộ 03 sao SÁT PHÁ THAM;
     - Bộ 02 sao CỰ NHẬT.
     Ngoài 4 bộ sao cơ bản trên; khi các bộ sao giao hội với nhau sẽ sinh ra một số nhóm sao:
     - Nhóm ĐỒNG CƠ CỰ
     - Nhóm ÂM DƯƠNG LƯƠNG
     - Nhóm TỬ VŨ LIÊM giao hội nhóm SÁT PHÁ THAM đồng thời xuất hiện bộ PHỦ TƯỚNG đơn thủ.
     Nếu tính cả thể Xung chiếu ta có thêm rất nhiều bộ, nhóm sao khác. Các cách cục này lần lượt sẽ được giới thiệu trong quá trình nghiên cứu.
     6.4. Các thế cố định của sao
     Việc nhớ các thế cố định của sao là điều kiện tiên quyết khi nghiên cứu Tử Vi; Do vậy yêu cầu người Học, nghiên cứu buộc phải nhớ các kiến thức sau:
     - TỬ VI luôn Lục hội với CỰ MÔN;
     - TỬ VI và THIÊN PHỦ đối xứng nhau qua trục Dần Thân;
     - TỬ VI-VŨ KHÚC-LIÊM TRINH luôn Tam hợp với nhau (theo chiều nghích);
     - SÁT-PHÁ-THAM luôn Tam hợp với nhau (theo chiều thuận);
     - THIÊN PHỦ luôn Tam hợp THIÊN TƯỚNG (theo chiều thuận);
     - THIÊN ĐỒNG luôn Tam hợp với THIÊN CƠ (theo chiều thuận);
     - THIÊN ĐỒNG luôn Nhị hợp với THAM LANG;
     - THIÊN TƯỚNG và PHÁ QUÂN luôn Xung chiếu nhau;
     - THIÊN TƯỚNG luôn Lục hội với THIÊN CƠ;
     - PHÁ QUÂN luôn Nhị hợp với THIÊN CƠ;
     - THÁI ÂM luôn Nhị hợp với VŨ KHÚC;
     - THÁI ÂM luôn Tam hợp với THIÊN LƯƠNG (theo chiều thuận);
     - THẤT SÁT và THIÊN PHỦ luôn Xung nhau;
     - THẤT SÁT luôn Lục hội với THÁI DƯƠNG;
     - THIÊN PHỦ luôn Nhị hợp với THÁI DƯƠNG;
     - LIÊM TRINH luôn Nhị hợi với THIÊN LƯƠNG;
     Ngoài ra cần nhớ;
     -THIÊN CƠ luôn đứng ngay sau TỬ VI;
     - Phía trước CỰ MÔN luôn là THIÊN TƯỚNG, phía sau luôn là THAM LANG;
     - Phía trước VŨ KHÚC luôn là THÁI DƯƠNG, phía sau luôn là THIÊN ĐỒNG;
     - Phía trước THAM LANG là CỰ MÔN, phía sau luôn là THÁI ÂM;
     - Phía trước THÁI ÂM luôn là THAM LANG, phía sau là THIÊN PHỦ;
     - Phía trước THIÊN PHỦ luôn là THÁI ÂM;
     - Phía sau THẤT SÁT luôn là THIÊN LƯƠNG;
     - Phía trước THIÊN LƯƠNG là THẤT SAT phía sau luôn là THIÊN TƯỚNG;
     - Phía sau THÁI DƯƠNG luôn là VŨ KHÚC.
     6.5. Phương pháp an Chính tinh
     Như đã giới thiệu ở “Mục 6.2.1” trong Tử Vi có 14 Chính và chia ra làm hai Vòng riêng biệt. Hai vòng này khi phối hợp với nhau tạo ra 12 vòng Chính tinh. Chúng ta không nghiên cứu việc hai vòng xuất phát từ đâu mà chỉ cần lưu ý khi ngôi sao TỬ VI hay bất cứ một ngôi sao nào thuộc 12 Chính tinh di chuyển quanh 12 cung trên Địa bàn sẽ tạo ra 12 Vòng của Chính tinh của Tử Vi. Các vòng Chính tinh của Tử Vi được tổng hợp ở “Mục 6.5.3” của nội dung này.
     Việc nhớ được 12 Vòng Chính tinh sẽ giúp ích rất nhiều để thực hiện việc nhớ các thế cố đinh của sao trong “Mục 6.3” đồng thời giúp người học có thể đưa ra được bố cục Chính tinh của lá số khi biết vị trí một Chính tinh bất kỳ.
     6.5.1. Phương pháp 1: an theo các tài liệu hiện có
     Theo các tài liệu Tử Vi hiên có, sau khi tìm được vị trí của TỬ VI thì các sao còn lại thuộc Vòng TỬ VI được an như sau:
     Sau khi an TỬ VI, đếm theo chiều thuận cách TỬ VI 3 cung; an LIÊM TRINH; cách LIÊM TRINH 2 cung, an THIÊN ĐỒNG; tiếp theo THIÊN ĐỒNG là VŨ KHÚC; Sau VŨ KHÚC là THÁI DƯƠNG; cách THÁI DƯƠNG 1 cung, an THIÊN CƠ.
     Sau khi an THIÊN PHỦ, theo chiều thuận, lần lượt mỗi cung an một sao, theo thứ tự: THÁI ÂM, THAM LANG, CỰ MÔN, THIÊN TƯỚNG, THIÊN LƯƠNG, THẤT SÁT cách 3 cung, an PHÁ QUÂN.
     * Ưu điểm: rễ nhớ, học thuộc có thể an được nhanh các sao;
     * Nhược điểm
     - Không hiểu được bản chất của thế sao, ảnh hưởng của các sao đến với nhau.
     - Cách hiểu này máy móc, dập khuôn và không thấy được những mối liên hệ thú vị bên trong. 
     - Khó lắm bắt được vấn đề nếu đi sâu vào nghiên cứu các sao, các cách cục;
     - Không có ảnh hưởng tốt với quá trình nghiên cứu.
     6.5.2. Phương pháp 2: an theo các thế cố định của sao
     Để thực hiện theo phương pháp này, yêu cầu phải nhớ được các thế cố định của sao “Mục 6.3
     * Ưu điểm
     - Hiểu được bản chất của Thế sao, do các sao có liên hệ với nhau qua thế sao;
     - Người học nắm bắt được ý nghĩa của các bộ sao trong Tử Vi và hiểu được những mỗi liên hệ giữa các sao bên trong;
     - Hiểu được mối quan hệ giữa các cung với nhau; 
     - Có ảnh hưởng tốt về mặt lâu dài với việc nghiên cứu.
     * Nhước điểm: thời gian đầu khó nhớ hơn Phương pháp 1. 
     Để phục vụ việc học tập, nghiên cứu; có thể sử dụng cả hai Phương pháp an Chính tinh ở trên để áp dụng. Có thể không dùng phương pháp thứ nhất nhưng yêu cầu phải dùng được phương pháp thứ 2.
     6.5.3. Bản đồ 12 vòng Chính tinh trong Tử Vi
     Bản đồ thể hiện 12 vị trí của mỗi Chính tinh trên Địa bàn.
     Về lâu dài, cần nhớ được 12 Vòng Chính tinh trong Tử Vi như các Hình vẽ từ “Hình 6-1" đến "Hình 6-12” dưới đây.
 
    Hình 6-1: TỬ VI cư Tý                      Hình 6-2: TỬ VI cư Sửu
 
 
 Hình 6-3: TỬ VI cư Dần                     Hình 6-4: TỬ VI cư Mão
 
Hình 6-5: TỬ VI cư Thìn                             Hình 6-6: TỬ VI cư Tị
Hình 6-7: TỬ VI cư Ngọ                           Hình 6-8: TỬ VI cư Mùi

 Hình 6-9: TỬ VI cư Thân                      Hình 6-10: TỬ VI cư Dậu
Hình 6-11: TỬ VI cư Tuất                       Hình 6-12: TỬ VI cư Hợi
     Ghi chú:
     - TH.TƯỚNG: THIÊN TƯỚNG
     - TH.PHỦ: THIÊN PHỦ
     - TH.ĐỒNG: THIÊN ĐỒNG
     - TH.ÂM: THÁI ÂM
     - TH.LƯƠNG: THIÊN LƯƠNG
     - PH.QUÂN: PHÁ QUÂN
     - TH.LANG: THAM LANG
     - L.TRINH: LIÊM TRINH
     Nhận xét:
     Khi TỬ VI đóng tại các Cung Dương
     TỬ VI thuộc bố cục hoàn chỉnh của bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM
     Nhóm SÁT PHÁ THAM đứng độc lập. 
     Khi đó việc quyết đoán phụ thuộc vào các Bàng, Cát, Hung, Sát để quyết định.
     Bộ CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG giao hội với Bộ CỰ NHẬT sinh ra các cách cục: ĐỒNG CƠ CỰ, ÂM DƯƠNG LƯƠNG
     Khi TỬ VI đóng tại các cung Âm
     Hai nhóm TỬ VŨ LIÊM và SÁT PHÁ THAM giao hội với nhau tạo ra các cách: TỬ SÁT, LIÊM PHÁ, THAM VŨ, TỬ THAM, VŨ PHÁ, LIÊM SÁT, TỬ PHÁ, LIÊM THAM, VŨ SÁT.
     Bộ PHỦ TƯỚNG đứng độc lập.
     Bộ TỬ VŨ LIÊM bất lợi trước SÁT PHÁ THAM duy chỉ vị trí THAM VŨ (TỬ VI tại Tị hoặc Hợi) đươc cho là hay. Tuy nhiên việc quyết đoán vẫn phụ thuộc vào các Bàng, Cát, Hung, Sát quyết định.
     Bộ CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG và bộ CỰ NHẬT hoàn chỉnh. Khi đó tao ra các bộ ĐỒNG ÂM, ĐỒNG LƯƠNG, CƠ ÂM, CƠ LƯƠNG,...
     Khi TỬ VI đóng tại các cung từ Tị đến Dậu bộ ÂM DƯƠNG sáng ngược lại TỬ VI đóng tại các cung từ Hợi đến Mão bộ ÂM DƯƠNG tối. TỬ VI đóng tại hai cung Thìn và Tuất bộ ÂM DƯƠNG đồng cung.
     Bộ ÂM DƯƠNG trên TỬ VI quyết định đến sự thành công sớm hay muộn của lá số. ÂM DƯỚNG sáng thì phát sớm và ngược lại nếu ÂM DƯƠNG hãm thì vãn niên mới toại ý.
     Tuy nhiên việc quyết đoán vẫn phụ thuộc vào các Bàng, Cát, Hung, Sát quyết định.
     6.5.4. Bài tập ứng dụng
     Ví Dụ: An lá số Tử vi khi biết TỬ VI an tại Ngọ
     Ap dụng các kiến thức của “Mục 6.3” ta có:
     - TỬ VI luôn Lục hội với CỰ MÔN nên ta dễ dàng tìm được CỰ MÔN an tại Sửu;
     - TỬ VI-VŨ KHÚC-LIÊM TRINH luôn tam hợp nên ta tìm được: Tam hợp Trái của TỬ VI là VŨ KHÚC nên VŨ KHÚC sẽ an tại Dần, Tam hợp phải của TỬ VI là LIÊM TRINH nên LIÊM TRINH sẽ an tại Tuất.
     - VŨ KHÚC luôn Nhị hợp với THÁI ÂM nên ta có THÁI ÂM an tại Hợi;
     - THÁI ÂM luôn Tam hợp trái với THIÊN LƯƠNG nên ta có THIÊN LƯƠNG an tại Mão;
     - LIÊM TRINH luôn Nhị hợp với THÁI DƯƠNG nên ta có THÁI DƯƠNG an tại Mão;
     - THÁI DƯƠNG luôn Lục hội với THẤT SÁT nên ta có THẤT SÁT an tại Thìn;
     - THẤT SÁT-PHÁ QUÂN-THAM LANG luôn Tam hợp với nhau nên từ vị trí THẤT SÁT đã an được ta có PHÁ QUÂN an tại Thân và THAM LANG an tại Tý;
     - THẤT SÁT và THIÊN PHỦ luôn Xung chiếu nhau nên ta có THIÊN PHỦ an tại Tuất;
     - PHÁ QUÂN luôn Nhị hợp với THIÊN CƠ nên ta có THIÊN CƠ an tại Tị;
     - THAM LANG luôn Nhị hợp với THIÊN ĐỒNG nên ta có THIÊN ĐỒNG an tại Sửu (có thể tìm vị trí THIÊN ĐỒNG qua Tam hợp trái với THIÊN CƠ);
     - PHÁ QUÂN luôn Xung chiếu với THIÊN TƯỚNG nên ta có THIÊN TƯỚNG an tại Dần (có thể tìm THIỆN TƯỚNG qua tam hợp Phải của THIÊN PHỦ).
     Từ đó ta sẽ có được vị trí của 14 Chính tinh khi biết vị trí của ngôi sao TỬ VI.
     Các bài tập ap dụng:
     Bài 1: An vị trí của 14 Chính tinh khi biết THIÊN PHỦ tại Dần;
     Bài 2: An vị trí của 14 Chính tinh khi biết THIÊN CƠ tại Mão;
     Ngoài ra có thể tập an khi biết một vị trí bất kỳ của Chính tinh khác do mình tự ra đầu bài.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...