Chuyển đến nội dung chính

LUẬN VỀ SAO THIÊN CƠ

Mục “Chư tinh vấn đáp” Thiên Cơ được gọi là sao giỏi tính toán mưu lược, quyền biến cơ mưu. Hóa khí của sao Thiên Cơ là “thiện”, thâm ý cổ nhân muốn tính chất kế mưu quyền biến đặt trên chính đạo hơn tà đạo.
Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết: Thiên Cơ giao hội với Thiên Lương Xương Khúc, văn thì thanh hiển, vũ trung lương “nhưng cũng viết tiếp…” nếu rơi vào đất hãm bị tứ sát xung phá là hạ cách.
Đa số chủ tinh đều có “hóa” khí - tỉ dụ Phá Quân hóa khí là “Hao” – Thiên Tướng hóa khí là “Ấn”. Đi thuận chiều hóa khí mới đắc dụng.
Read More

Thiên Cơ thuộc âm mộc, mộc của hoa cỏ mềm mại dễ uốn và lay động. Tư tưởng mẫn tiệp, ưa nghĩ ngợi nghi ngờ, phản ứng mau lẹ, nóng nẩy.
Kết hợp những điểm trên, Thiên Cơ lúc hành động dễ mắc vào tình trạng quá nóng vội, dù kế hoặc thấu đáo mà tự mình làm không thành. Thiên Cơ vì hiếu động nên cuộc sống ba động luôn.
Thiên Cơ là sao Nam đẩu, Thiên Cơ thủ Mệnh thông minh sáng suốt, hiếu học, tâm địa từ thiện, vì quá hiếu học, cái gì cũng học, nên học rộng mà không tinh.
Thiên Cơ đa tài đa nghệ, làm mưu sĩ được, làm con người hành động không hay. Vào nghiên cứu tốt, ở vị thế chỉ huy bình thường.
Thiên Cơ nhạy cảm, sức đối kháng không lì lợm nên không hợp với Hỏa Linh, Kình Đà, Không Kiếp và sợ nhất Hóa Kị. Gặp Hóa Kị, Thiên Cơ dễ biến ra không tưởng, ảo tưởng khó bắt kịp thực tế.
Thiên Cơ tinh đứng một mình chỉ ở Tí Ngọ, Tỵ, Hợi, Mùi, Sửu; đi cặp với Thái Âm tại Dần Thân; đứng với Cự Môn ở Mão Dậu; đồng cung với Thiên Lương ở Thìn Tuất.
Trước hết nói về Thiên Cơ Cự Môn đồng cung tức là cách Cơ Cự đồng lâm. Cách này có những nét đặc thù, không thể không chú ý. Cổ ca viết:”Với Cự Môn đứng chung, khả dĩ vào vũ chức nơi biên ải, cần phải thêm Quyền phùng Sát để lập công danh” Như thế cổ ca muốn nói rằng Cơ Cự được Hóa Quyền, mà gặp Tứ Sát không phải ở bản tam cung mà ở tam hợp chiếu, chủ quí hiển về võ chức.
Qua kinh nghiệm thì cách cuộc trên mang nhiều biến hóa, nếu Thiên Cơ Hóa Lộc lại không thành võ nghiệp chỉ mưu sinh dư dả phong lưu. Cự Cơ Hóa Lộc mà gặp Hỏa Linh, kể luôn cả chuyện mưu sinh cũng thăng trầm vô độ, hoặc danh lợi hư ảo. Bởi vậy cách Thiên Cơ Cự Môn cần Hóa Quyền hơn Hóa Lộc. Trường hợp bị Hóa Kị kể như hỏng.
Thiên Cơ bên cạnh Thiên Lương, cổ nhân gọi bằng cách “Cơ Lương gia hội”.
Cơ Lương Xương Khúc văn thanh hiển, vũ trung lương
Cơ Lương giao hội thiện đàm binh
Thiên Cơ cánh phùng Thiên Lương tất hữu cao nghệ tùy thân.
Thiên Cơ Thiên Lương đồng tại Thìn Tuất thủ Mệnh, gia cát diệu, phú quí từ tường nhược ngộ Kình Đà, Không Kiếp thiên nghi tăng đạo.
Cách Cơ Lương nhiều biến thái như thế đấy, có thể viết lý thuyết ra binh lược, có thể đạt một nghề nghiệp ở mức cao, có thể phú quí, có thể thành người tu hành.
Cổ ca viết:”Thiên Cơ đứng cùng Thiên Lương, có khuynh hướng đạo với tăng, nữmệnh gặp phải tính dâm bôn”. Ý cổ nhân muốn bảo rằng nữ mạng không nên có Cơ Lương. Cổ nhân hơi quá đáng khi dùng hai chữ dâm bôn. Cơ Lương bất quá chỉ là con người khéo đến mức sảo khi thủ mệnh Nữ. Không phải cứ Cơ Lương là dâm dật. Hợp tác với người nữ Cơ Lương hãy cẩn thận. Cơ Lương chỉ thật sự dâm dật nếu gặp Kình Đà Hóa Kị mà thôi.
Kình Đà Hóa Kị phá xung 
Lại là dâm dật tư thông âm thầm 
Gặp Kình Đà Hóa Kị trai tăng đạo, nữ dâm bôn, khác nhau ở điểm này.
Về mấy chữ “thiên nghi tăng đạo” còn phải hiểu thêm một ý khác là vô duyên, với những người xa bố mẹ anh em trên không gian, cũng như trên tình cảm. Tăng đạo cũng xem là một người thông hiểu về tôn giáo triết học hoặc thuật âm dương số tướng. Đừng nghĩ hai chữ tăng đạo qua hình ảnh mặc áo nâu sồng quét lá đa trong chùa.
Cách phổ biến của Thiên Cơ có: Cơ Nguyệt Đồng Lương. Sách nói: Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân (Mệnh hội tụ đủ bộ sao Thiên Cơ, Thiên Lương, Thiên Đồng, Thái Âm thì làm lại người phụ giúp cơ quan chỉ huy). Chuyển vào hiện đại ngữ thì là công chức, rồi đoán cách ấy hiển hiện thành con người đi làm ba cọc ba đồng hàng tháng lĩnh lương. Không phải vậy, chữ “lại” cho bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương còn mang cái nghĩa thâm thúy sâu sắc hơn.
“Lại nhân” thời xưa là loại người ưa lộng quyền trong phạm vi quyền lực của hắn, Tây phương coi bọn lại nhân như một thế lực thư lại. Lại nhân giỏi cơ biến, có mưu lược, ăn nói mồm mép, tham tiền khéo dụng quyền thuật. Nếu chỉ coi như vị công chức thì cái nghĩa đó hiền lành quá e không lột được thâm ý Cơ Nguyệt Đồng Lương.
Cơ Nguyệt Đồng Lương chỉ giỏi phục vụ, mượn quyền mượn thế, không bao giờ làm được kẻ khai sáng, tiên phong. Số Cơ Nguyệt Đồng Lương khả dĩ dùng làm thủ túc rất tốt.
Cơ Nguyệt Đồng Lương chính là cách mà Thiên Cơ đứng chung với Thái Âm tại Dần hay Thân. Cổ ca viết: “Thiên Cơ Thái Âm đồng cư Dần Thân, nan miễn bạt tha hương” (Thiên Cơ Thái Âm đứng chung ở hai cung Dần Thân tất có ngày lưu lãng quê người). Lưu lãng cùng tình trạng phù động. Do vậy mệnh nữ mà Thiên Cơ Thái Âm thì tình cảm không chuyên nhất dễ biến tâm.
Đồng cung Cơ gặp Thái Âm 
Tấm lòng phóng đãng gian dâm đáng buồn 
Có một điểm chung, người nữ Thái Âm bao giờ cũng xinh và khéo. Cơ Âm mà ở Thân tốt hơn ở Dần. Vì Thân đắc vị cho Thái Âm. Cơ Âm nếu gặp Hóa Quyền vào ngành tài chánh kinh thương thành công. Cơ Âm được Hóa Khoa học vấn nghệ thuật hợp cách. Cơ Âm Hóa Lộc làm ăn khá giả nhưng thường lao tâm khổ tứ về tiền, thần kinh bén nhậy đưa đến suy nhược vì nghĩ ngợi.
Bây giờ bàn đến những cách Thiên Cơ độc toạ Mệnh. Thiên Cơ đứng một mình tốt nhất ở hai cung Tí và Ngọ. Vì hai cung này là đất miếu của Thiên Cơ, mặt khác vì nó kết với Cự Môn từ cung xung chiếu Tí với Ngọ đất vượng của Cự Môn. Thiên Cơ tại Tí Ngọ thi triển được toàn bộ khả năng của nó. Khả năng giải quyết công việc, khả năng thuyết phục , khả năng phản ứng mau với những bất ngờ, khả năng học vấn thi cử.
Vấn đề còn lại là việc của Khoa Quyền Lộc. Quyền cần thiết nhất, Khoa thứ nhì, Lộc thứ ba. Trường hợp gặp Hóa Kị, cái thế của Thiên Cơ Tí Ngọ giảm hẳn. Sở dĩ Hóa Quyền cần thiết với Thiên Cơ không phải vì bản thân Thiên Cơ mà vì sao Cự Môn xung chiếu. Cự Môn thiếu Hóa Quyền sức mạnh kém (Sẽ nói thêm khi bàn riêng về Cự Môn). Với Hóa Kị, Cự Môn càng bị phiền hơn, Thiên Cơ đóng Sửu hay Mùi kể như rơi vào hãm địa. Nếu không được Tả Hữu, Xương Khúc, hoặc Quyền Khoa Lộc trợ giúp, chỉ loanh quanh với tiểu chức. Nếu bị Hỏa Linh Không Kiếp xung phá hoặc Hóa Kị ám hại sẽ không tránh khỏi tâm tư hoảng loạn, tình cảm thống khổ.
Thiên Cơ Sửu Mùi nên an thân thủ phận. Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư còn có câu phú: “Thiên Cơ gia ác sát đồng cung cẩu du thử thiết” nghĩa là Thiên Cơ cố nhiên phản ứng mau lẹ, đầu óc lại hiếu động, ở một tình thế ép buộc nào đó có thể là tay trộm cắp rành tay nghề.
Sách đời sau đưa ra một cách gọi bằng: Mệnh cung Tỵ Hợi nói về sao Thiên Cơ đóng Hợi hay Tỵ, nếu gặp phụ tinh hay thì sang quí mà có sát tinh biến thành con người gian tà, tiểu nhân.
Sau đây cần luận thêm bản chất của Thiên Cơ tinh:
- Đa học đa năng về suy tư nhưng cũng dễ có xu hướng ảo tưởng
- Đa biến nên khó mà theo đuổi nghề nghiệp công việc lý tưởng nào lâu dài.
- Thuộc ất mộc, mộc của cỏ hoa nên dễ xung động, thường tạo cho bề ngoài đẹp đẽ, nói năng thuyết phục được người nghe, ít có bụng chân thành cảm phục ai, thông minh mà thường dễ bị cái thông minh của chính mình làm mình nhầm.
- Có một cách về Thiên Cơ không thấy ghi các sách Hán, mà lại rất phổ biến trong khoa Tử Vi tại Việt Nam là Thiên Cơ gặp Thiên Khốc Thiên Hư đưa đến bệnh lao phổi, lao xương.
- Thiên Cơ cư Sửu, kinh vân hài đặc thủy diệu cánh nại tài bồi
(Thiên Cơ ở Sửu bị lâm thế hãm sách nói nhưng nếu được nhiều sao của hành thủy thì cũng nên công vì Thiên Cơ thuộc mộc lại ở cung thấp thổ có thêm nước cây khả dĩ đâm chồi nảy lộc, nhưng Thiên Cơ ở Mùi cung táo thổ dù gặp thủy diệu vô ích).
- Cơ, Thư, Hồng cư Dần địa, nhi phùng Lộc, Ấn cận cửu trùng.
(ở Dần Thiên Cơ tất đi cùng Thái Âm. lại có Tấu Thư, Hồng Loan mà gặp cả Lộc Tồn hay Hóa Lộc và Quốc Ấn người nữ lấy chồng sang, chồng quyền thế. Vì Cơ Âm Hồng là người đàn bà đẹp, đa tình, khôn khéo, Tấu Thư có duyên giỏi nịnh giỏi đàn ngọt hát hay, còn thêm Lộc Ấn là những may mắn thì chuyện cận cửu trùng đâu khó)
- Cơ Lương tứ sát Tướng Quân xung, Vũ khách tăng lưu mệnh sở phùng
(Cơ Lương Thìn Tuất bị tứ sát lại có cả Tướng Quân xung chiếu thì làm nghề mãi võ (múa võ rong) hoặc làm thầy tu thầy ngãi)
- Thìn cung Cơ Lương Giáp Nhâm dương nữ lợi tử thương phu, Ất Quí âm nam do phú thành vinh, duy thê khắc hại
(Cung Thìn lập Mệnh Cơ Lương thủ, người nữ tuổi Giáp Nhâm sinh con nhiều nhưng ăn ở không vừa bụng chồng (không nhất định là sát chồng). Người nam tuổi Ất, Quí làm ăn có tiền mà thành vinh hiển nhưng lại gặp vợ lăng loàn)
- Cơ Nguyệt Cấn Khôn nhi hội Riêu Xương thi tứ dâm tàng
(Mệnh Cơ Nguyệt ở Dần hay Thân mà lại thêm Xương Riêu thường suy nghĩ đến chuyện dâm. Riêng cho nữ mạng thôi)
- Kỷ tuế Cơ Nguyệt Đồng Lương, hạn đáo trúc la gia lâm Phụ Bật, đăng vân nhất bộ
(Mệnh mang cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà người tuổi Kỷ, khi gặp vận Sát Phá Tham thì lại đột phát công danh. Ý chỉ Mệnh có Khoa gặp vận Hóa Quyền)
- Ất Tân tuế văn đoàn hỷ ngộ Hư Kình Tuế Khách hạn lâm hoạnh đạt võ công
(Tuổi Ất Tân mang cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà gặp vận Thiên Hư, Kình Dương, Thái Tuế, Điếu Khách bất ngờ tạo được võ công. Câu này không có căn cứ vững vàng)
- Cơ hội Phục Binh nơi Ngọ vị
Vận gặp thời chức vụ quản binh
Thiên Di Cơ Mã cùng ngồi
Đông trì Tây tẩu pha phôi cõi ngoài
(Thiên Cơ gặp Thiên Mã tại Thiên di cung, thường làm việc ở nước ngoài, nơi xa quê hương bản quán)
- Thiên Cơ Khốc Hư chẳng màng
Phổi kia hãy phải lo toan lấy mình

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...