Chuyển đến nội dung chính

LUẬN VỀ SAO THIÊN PHỦ

Thiên Phủ là chủ tinh của hệ Nam đẩu. Tính chất của chủ tinh mang một đặc điểm trên mặt nào đó. Cũng có tài lãnh đạo, nhưng Tử Vi khả năng sáng tạo mạnh mẽ trong khi Thiên Phủ chỉ đắc lực khi cục diện đã xong xuôi. Thiên Phủ dễ bị ảnh hưởng người khác, quyết định tính thấp. Cổ nhân coi Tử Vi chủ về tước lộc và chỉ xem Thiên Phủ chủ về tiền bạc y lộc. Bởi tại người xưa quan niệm quyền chức hơn giàu có, uy thế hơn tiền bạc. Ngoài ra tính chất của nam đẩu là gìn giữ, bảo thủ và tuổi thọ.

Tính chất của Bắc đẩu là tranh đấu, khắc phục và dễ lâm hiểm nguy. Thiên Phủ còn là chứng tượng của sinh ra nuôi, lớn lên, cho nên Thiên Phủ mà đóng ở bào huynh thì anh em đông, Thiên Phủ đóng Mệnh thì trường thọ. Thiên Phủ thuộc dương Thổ, hóa khí là hiền năng. Thiên Phủ thủ Mệnh làm việc gì cũng cẩn thận chú ý, nhưng lại ưa chỉ tay năm ngón hơn tự mình động thủ. Khiêm cung bề ngoài nhưng tâm ý lại khác, tính tình phong lưu.

Read More

Thiên Phủ bản chất là chất chứa, cất dấu nên gọi bằng tài khố (kho tiền) bởi vậy cần Lộc thì kho mới đầy. Thiên Phủ sợ gặp sát tinh, nếu bị Kình Đà Linh Hỏa Không Kiếp xung chiếu hay thủ, cổ nhân ví như kho không có cửa (lộ khố) tương phản với bản chất Thiên Phủ ắt không tốt đẹp. Cổ ca có câu:”Thiên Phủ hội hợp với Hỏa Linh Dương Đà là con người gian trá lắm thủ đoạn thích dùng quyền thuật”


Thiên Phủ là chư tinh nên cũng ưa được chầu hầu vì thế hợp với Hóa Khoa, điểm này thì hoàn toàn cùng chất với Tử Vi. Tử Vi có Thiên Phủ Thiên Tướng chiếu gọi bằng “Phủ Tướng triểu viên” hay Thiên Phủ có Tử Vi Thiên Tướng chiếu gọi bằng “Tử Tướng triều viên” tất cả đều coi là trăm quan hướng chầu cả.

Thiên Phủ cần an định, bởi vậy sự có mặt của Thiên Khôi Thiên Việt không quan trọng lắm, vì lẽ Khôi Việt chủ về cơ hội, đã an định đương nhiên cơ hội không được coi làm cần thiết. Thiên Phủ cần Tả Phù Hữu Bật và Văn Xương, Văn Khúc, hoặc đứng cùng hoặc tam hợp chiếu hoặc giáp mệnh.

Một khi Thiên Phủ đã có Hóa Khoa, Xương Khúc Tả Hữu rồi thì dù cho không gặp Lộc hay bị vài sát tinh cũng không xem như tình trạng kho rỗng, kho không cửa. Thiên Phủ Hóa Khoa được thiên hạ tín nhiệm trên mặt tiền bạc, thêm Tả Hữu càng mạnh hơn, mặt khác cũng là con người giỏi cáng đáng trách nhiệm.

Thiên Phủ đóng Thìn Tuất (cùng với Liêm Trinh) có Hóa Khoa mà thêm Khôi Việt giáp hay hội tụ qua tam hợp, gặp cơ hội thi triển tài năng xứng đáng địa vị cầm đầu. Đối với Thiên Phủ cổ nhân cho rằng Hóa Khoa tốt hơn Hóa Quyền.

Bản thân Thiên Phủ là kho đựng chủ về tài quyền không gặp Hóa Lộc hay Lộc Tồn hẳn nhiên quyền lực Thiên Phủ phải kém đi, lại luôn luôn chịu ảnh hưởng Thất Sát từ xung đối xung mà lại có Hóa Quyền nữa thì sức xung kích quá mạnh, Thiên Phủ khó bảo vệ tính chất an định. Thiên Phủ Lộc Tồn đồng cung là kho có tài lộc chính là một triệu chứng an định vững bền. Lực lượng bảo thủ đã thắng sức xung kích của Thất Sát.

Trường hợp Thiên Phủ không đứng với Lộc nhưng có Tả Hữu và không phải bị những sát tinh khác quấy nhiễu và đối cung Thất Sát lực lượng hùng mạnh hơn thì Thiên Phủ mới có được sự kích thích mà tự biến thành một kẻ phấn đấu không mệt mỏi mà thành công (trên mặt tiền tài thôi). Tỉ dụ Thiên Phủ đóng Tỵ Hợi, xung chiếu có Tử Vi Thất Sát, phía lực lượng xung kích còn có cả Hóa Quyền. Có sự xung kích như thế Thiên Phủ mới từ bỏ hẳn bản chất an định. Nếu sức xung kích chỉ vừa phải như thiếu Quyền thì cuộc phấn đấu của Thiên Phủ thường đưa đến kết quả nửa đường bỏ cuộc.

Một trường hợp ngoại lệ cho Thiên Phủ Tỵ và Hợi là gặp Không Kiếp đồng cung thì lại biến ra con người thâm trầm khó hiểu nhưng đủ thủ đoạn để chống với sức xung kích kia mà làm nên giàu có. Không Kiếp phải đứng ở Tỵ Hợi mới hợp cách, Không Kiếp hội tụ theo thế tam hợp đều kể là “kho rỗng”, “kho lộ”, “kho thủng”. Không Kiếp chiếu làm cho tâm ý giảo quyệt, nghi hoặc, không thích ứng với thực tế, cuối cùng như kẻ thất bại cô đơn.

Với nữ mệnh cũng áp dụng lối đoán như nam mệnh, chỉ khác một điểm Thiên Phủ đắc thế thì tranh đoạt Phu quyền, gây dựng cơ nghiệp. Thiên Phủ không đắc thế mà gặp Không Kiếp thì tình duyên đứt đoạn dở dang. Nhất là Thiên Phủ ở Mão hay Dậu. Thiên Phủ đứng một mình ở Mão Dậu, Sửu Mùi mà gặp Hỏa Linh Không Kiếp, Kình Đà thường là con người đầu cơ thủ xảo, gian ngoan.

Những câu phú về Thiên Phủ đáng chú ý:

- Nam Thiên Phủ giao long vãng đực
(Mệnh đàn ông có Thiên Phủ tọa thủ là người làm việc thận trọng suy nghĩ chín chắc)

- Thiên Phủ tối kị Không tinh nhi ngộ Thanh Long phản vi cát tường
(Thiên Phủ sợ gặp Không Kiếp, nếu được Thanh Long thì tốt lắm)

- Phủ cư địa võng nhược lâm Tuần Không Nhâm Đinh tuế, mãn thế hoài bão nan phùng vận lộ
(Thiên Phủ tại Tuất mà bị Tuần Không, tuổi Đinh Nhâm cả đời hoài bão không đạt)

- Thiên Phủ kị ngộ Không tinh lại nhập tài cung tán hao vô độ
(Thiên Phủ không hợp với Tuần Triệt Kiếp Không án ngữ Thiên Phủ ở cung tài bạch thì tiền bạc hao tán hoài)

- Thiên Phủ lâm Tuất cung vô sát tấu, Giáp Kỷ nhân yêu kim hư thả phú
(Thiên Phủ đóng Tuất thủ Mệnh không bị sát tinh, người tuổi Giáp Kỷ dễ phát công danh và cũng dễ làm giàu)

- Thiên Phủ cư Ngọ Tuất Thiên Tướng lai triều Giáp nhân nhất phẩm chi quí
(Thiên Phủ đóng Ngọ hay Tuất có Thiên Tướng chầu, người tuổi Giáp chức lớn)

- Phủ tướng lai triều chung thân Phúc Lộc
(Mệnh có Phủ Tướng chầu, suốt đời có Lộc, tiền bạc dư dả, tốt nhất là ở hai cung tài bạch, quan lộc chiếu lên, có kèm lộc càng hay)

- Phủ Vũ Tí cung, Giáp Đinh nhân phúc vượng danh hương; hung lại Tuần Kiếp danh sứ nhân khi ư Canh Nhâm tuế, tài phúc trường hành
(Cung Mệnh có Thiên Phủ ở Tí, người tuổi Giáp Đinh hưởng phúc nên danh nên giá nếu bị Tuần Không, Địa Kiếp thì dễ mang tiếng mang tai, riêng tuổi Canh Nhâm không đáng ngại)

- Phủ Vũ Khúc an bài cung Tí
Người Giáp Đinh cách ấy rất hay
Gặp phải Tuần Kiếp rủi thay
Tiếng bia miệng xấu tháng ngày không yên
Nhưng gặp tuổi Canh Nhâm chế ngự
Phúc tài kia vẫn cứ hanh thông

- Thiên Phủ Lộc Tồn Xương Khúc cự vạn chi tư
(Mệnh có Thiên Phủ Lộc Tồn Xương Khúc là số giàu)

- Thiên Phủ Xương Khúc Tả Hữu cao đệ ân vinh.
(Mệnh Thiên Phủ cùng Tả Hữu Xương Khúc công thành danh toại)

- Thiên Phủ cư Tài bạch diệt thị đa tài, ngộ Thiên hình tất hao tổn
(Thiên Phủ đóng Tài bạch thì tiền cũng nhiều, nhưng bị Thiên Hình thành hao tốn)

- Phủ phùng Đà Tuế Tỵ cung
Cuồng ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày
Phủ phùng Không xứ tài suy
Thuỷ chung nan bảo tư cơ lưu truyền
Phủ bị Không Kiếp đồng cung

- Gặp Thanh Long lại biến thành vòng cát tinh
(Phủ gặp Không Kiếp đồng cung, có Thanh Long lại trở nên tốt hẳn như ở trên đã bàn)

- Dần cung Tử Phủ khá tường
Tam Hóa Kình Bật là phường văn nhân
Ấy văn cách chuyển sang võ tướng
Nắm quyền uy bốn hướng phục tòng
Nếu gặp Không Kiếp giao lâm
Ắt danh hư ảo có lầm được đâu.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...