Chuyển đến nội dung chính

THẤT TINH ĐẢ KIẾP

Thất tinh đả kiếp là một yếu tố quan trọng trong Phong thủy Huyền không,do phần lớn những người nắm vững yếu tố này đều không muốn tiết lộ, nên vài trăm năm nay số người hiểu và vận dụng được có thể đếm trên đầu ngón tay. Đó là lý do các trường phái Huyền không ngày nay tranh luận rất nhiều về loại bố cục này,đồng thời đưa ra nhiều kiến giải khác nhau.

Tọa tý hướng ngọ, lập trong vận 8.

Thất tinh đả kiếp là phương thức đồng hợp Khí tương phản với đương vận,biến thù thành bạn,giúp tương thông Khí tam nguyên cửu vận,từ đó bảo đảm sự lưu thông của vượng Khí.Vì đây là một phương pháp giúp trạch vận "Tam nguyên bất bại" nên thất tinh đả kiếp mới lưu truyền từ đời này sang đời khác và thu hút sự quan tâm của nhiều người.

Hàm nghĩa của thất tinh đả kiếp

Tên đầy đủ của thất tinh đả kiếp là Bắc đẩu thất tinh đả kiếp, Bắc đẩu ở đây có nghĩa là khí nhập trung cung,còn Thất Tinh là chỉ ngôi sao nằm cách vận tinh ngược 7 vị trí,ví dụ như từ Tam bích đếm ngược 7 vị trí sẽ là Lục bạch, từ Lục bạch đếm ngược 7 vị trí sẽ là Cửu tử, từ Cửu tử đếm ngược 7 vị trí sẽ là Tam bích, sắp xếp theo phương pháp phi nghịch 7 sao này sẽ có 3 tổ hợp thứ tự số, đây chính là 3 tổ hợp Thất tinh đả kiếp trong Phong thủy Huyền không.Vị trí đếm ngược đến có Khí ngũ hành tương phản với chính Khí của ngũ hành trung cung, dễ gây tai họa,vì thế dùng thất tinh đả kiếp, lấy vận hiện tại để đoạt Khí tương lai nhằm đạt được mục đích chuyển hung thành cát.

Đoạt khí tương lai là dùng Khí Thượng nguyên cướp vượng Khí của Trung nguyên, khí của Trung nguyên cướp vượng Khí của Hạ nguyên.

Để có thất tinh đả kiếp thì cần phải có đủ 2 điều kiện, một là vượng tinh phải đáo hướng, hai là số của phi tinh ở 3 cung Ly Chấn Càn hoặc Tốn Khảm Đoài phải là quẻ phụ mẫu tam ban, tức là phải hình thành tổ hợp 1- 4-7, 2 - 5-8, 3 - 6 - 9. Nếu số của phi tinh ở 3 cung Ly Chấn Càn tạo thành phụ mẫu tam ban thì gọi là "Ly cung đả kiếp",còn số ở 3 cung Tốn Khảm Đoài tạo thành tam ban phụ mẫu thì gọi là "Khảm cung đả kiếp"

Nguyên lý của thất tinh đả kiếp

Xét trên tinh bàn,dù là vận mấy, kết quả của phi tinh bàn vẫn là số trung cung với số cung Ly hay cung Khảm hợp thành số sinh thành, hay hợp thập,như vậy Cửu cung thông Khí, âm dương hài hòa, tuy cách cục không vượng sơn vượng hướng,vẫn có tác dụng tương đương vượng Sơn vượng Hướng và không có tai họa.

Xét về ứng dụng thực tế.Ly Khảm ở chính giữa Tý Ngọ, là trục Bắc Nam trục của từ trường trái đất, chính Khí tương thông dễ đoạt Khí tương lai, chuyển hung thành cát.

Bố cục tinh bàn của thất tinh đả kiếp chỉ xảy ra khi song tinh hội hướng hay song tinh hội tọa, còn các tinh bàn khác (hướng khác) không có bố cục này.Trong vận 8 này có 6 cách cục đả kiếp, đó là Tý sơn Ngọ hướng, Qúy sơn Đinh hướng,Canh sơn Giáp hướng (chân đả kiếp) và Mão sơn Dậu hướng, Ất sơn Tân hướng, Bính sơn Nhâm hướng

Sáu cách cục đả kiếp nếu đả kiếp thành công là vượng cục. Nếu không đả kiếp được thì sẽ là cách cục Hạ thủy, riêng 2 cách cục Tý sơn Ngọ hướng và Qúy sơn Đinh hướng không phải là Sát tinh đáo sơn nên không kỵ nhiều, còn lại toàn là cách cục vượng tài nhưng tổn đinh ( tai họa về người ), vì có Sát tinh đáo sơn.


LƯỢNG THIÊN XÍCH. St

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...