Chuyển đến nội dung chính

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát.

Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim.

Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương.

Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.

Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng.

Kim Thần Thất Sát Lập Thành.

Thuyết thứ hai cũng được lưu lại trong sách cổ là Hứa Chân Quân Ngọc Hạp và Gia Dụng Tuyển Trạch Bí Thư. Có ghi rõ như sau:

Năm Giáp - Kỷ. Tại Ngọ, Mùi
Năm Ất - Canh. Tại Thìn, Tị
Năm Bính - Tân. Tại Tý, Sửu, Dần, Mão
Đinh - Nhâm. Tại Tuất, Hợi
Năm Mậu - Quý. Tại Thân, Dậu

Đây là hai thuyết được nêu trong các thư tịch cổ, trong đó thuyết thứ nhất vẫn chưa tìm được lý do tại sao lại sắp xếp như vậy, còn thuyết thứ hai thì nêu thiếu nội dung của Kim Thần.

"Thiên Hồng Phạm" có nói rằng: "Kim Thần là tinh của Thái Bạch, thần của bạch thú, chủ chiến tranh, loạn ly, chết chóc, nước khô hạn và ôn dịch. Chỗ đất nó quản kị tu bổ thành trì, xây cung thất, dựng lầu gác, mở rộng khu vườn cây cảnh, khởi công, cất nóc, xuất quân chinh phạt, di chuyển, cưới gả, đi xa nhậm chức. Nếu phạm can thần phải đặc biệt kị chỗ đó."

Vậy tại sao lại nói Kim Thần? Kim Thần là Canh, Tân và ngũ hành nạp âm thuộc Kim vậy. Nguyên lý tính toán lấy Thiên Can của năm, dùng Ngũ Hổ Độn tính đến Canh, Tân và ngũ hành nạp âm là Kim thì chỗ đó là Kim Thần.

Ví dụ như năm Giáp và kỷ thì khởi là Bính Dần, thuận hành đến Canh Ngọ và Tân Mùi. Vậy Ngọ và Mùi là Kim Thần của Giáp và Kỷ. Tiếp tục tính đến Nhâm Thân và Quý Dậu, nạp âm ngũ hành của Nhâm Thân và Quý Dậu là Kiếm Phong Kim. Vậy Thân và Dậu cũng là Kim Thần của Giáp và Kỷ.

Lại ví dụ như năm Ất và Canh. Dùng Ngũ Hổ Độn khởi Mậu Dần, đến Canh Thìn và Tân Tị, vậy Thìn và Tị là Kim Thần của Ất và Canh, đồng thời Canh Thìn và Tân Tị có ngũ hành nạp âm là Bạch Lạp Kim nên tính hết vòng độn cũng không tìm thêm được ngũ hành nạp âm thuộc Kim nữa. Vì vậy Ất và Canh chỉ có Thìn và Tị là Kim Thần.

Ngoài ra phỏng theo thế.

Theo "Tuyển Trạch Tông Kinh", lấy Ngũ Hổ Độn được phương Canh - Tân là Thiên Kim Thần, tuần nạp âm thuộc Kim là Địa Kim Thần. Lấy Thiên Kim Thần làm trọng, phải đặc biệt kị chỗ đó. Lại nói Thiên Kim Thần còn có một tên nữa là  Du Thiên Ám Diệu, phạm phải sẽ bị tai nạn về mắt, rất chuẩn xác.

Như vậy, Căn cứ vào khởi lệ của Kim Thần ta có thể thấy rằng:

Năm Giáp - Kỷ thì Ngọ Mùi là Thiên Kim Thần, Thân Dậu là Địa Kim Thần.
Năm Ất - Canh thì Thìn tị là Thiên Kim Thần (Cũng là Địa Kim Thần)
Năm Bính - Tân thì Dần mão Tý Sửu là Thiên Kim Thần, Ngọ Mùi là Địa Kim Thần
Năm Đinh - Nhâm thì Tuất Hợi là Thiên Kim Thần, Dần Mão là Địa Kim Thần
Năm Mậu - Quý thì Thân Dậu là Thiên Kim Thần, Tý Sửu là Địa Kim Thần.

Đây chính là nội dung đầy đủ và chính xác nhất về lý thuyết Kim Thần Thất Sát, làm căn cứ để học giả tính toán cát hung khi chọn phương hướng và ngày giờ khởi sự.


LƯỢNG THIÊN XÍCH

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau. Ấy là Tuế đức là cương, Tuế đức hợp là nhu. Khi dùng có thể căn cứ vào nguyên tắc việc bên ngoài dùng cương, việc bên tron

PHÒNG NGỦ CÓ SÁT KHÍ CHIẾU ĐẾN SẼ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC KHỎE VÀ CON CÁI

Việc bố trí phòng ngủ nói riêng cũng như nội thất của căn nhà nói chung khá phức tạp, nhất là những nhà có diện tích nhỏ hẹp hoặc có kiến trúc dạng ống, bởi trong lý luận phong thủy, bất kỳ căn nhà nào cũng có vượng khí, sinh khí, suy khí và sát khí chiếu đến từng vị trí cụ thể, việc bố trí nội thất cần phải dựa vào đó để giúp gia đạo an khang. Khi xét đến nội thất của căn nhà thì phòng ngủ được coi là vị trí rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tiền đồ của người nằm ngủ trong đó, vì vậy bố trí phòng ngủ cần phải tìm nơi khí sinh vượng, tránh nơi có sát khí chiếu đến. Trong quá trình nghiên cứu và ứng dụng học thuật phong thủy vào đời sống, chúng tôi đã gặp phải không ít trường hợp bố trí phòng ngủ sai với cách cục phong thủy, dẫn đến người nhà bệnh tật triền miên, việc thai sản cũng gặp khó khăn, điển hình là một gia đình sống tại phố Liễu Giai - Hà Nội. Ngôi nhà này xây dựng trong vận 8, tọa Quý hướng Đinh, kiêm Tý - Ngọ 5 độ, diễn số phong thủy như sau: Ngôi nhà có cách

Tử Vi Đẩu Số Thái Tuế Nhập Quái

Thái tuế nhập quái là cách xem do đại sư Tử Vân sáng lập. Cách xem này sử dụng yếu tố ngoại nhập vào lá số tử vi để đoán định. Thông tin ngoại nhập chính là địa chi. Anh tuổi gì ? tôi tuổi dog. Vậy là nạp chi Tuất vào xem. Có bốn tổ hợp tương tác: tuổi với tuổi, cung với tuổi, tuổi với cung và cung với cung.  Để tìm được yếu tố cung, bắt buộc phải có lá số trong tay. Nếu chỉ biết được tuổi của người đó thì không thể xem được theo phương pháp cung-cung. Còn trong dân gian thì hay hỏi ai đó tuổi gì, rồi đối chiếu với nhau. Như tuổi mão xung tuổi dậu. Cách xét tương tác tuổi với tuổi không sai, nhưng thô thiển. Nói cách khác, nếu lá số tử vi lập ra từ 5 yếu tố: năm tháng ngày giờ và giới tính. Thì cách lấy tuổi xét tương tác chỉ lấy địa chi của năm sinh, đương nhiên thô thiển. Cho nên mức độ chính xác có phần giới hạn. Quay lại cách xem thái tuế nhập quái của Tử Vân. Nói đơn giản là với lá số đó, thì khi nhập tuổi khác lên các cung, xét được tương tác của chủ nhân lá số với tuổi đó như th