Chuyển đến nội dung chính

SỰ TƯƠNG TÁC GIỮA BỘ MÔN PHONG THỦY VÀ THUẬT TRẠCH NHẬT

Trong dòng chảy thời gian ngàn năm qua, bộ môn Phong Thủy đã đóng vai trò rất to lớn, giúp cho con người có được môi trường sống hài hòa với thiên nhiên để từ đó tạo ra cái gốc vững chắc cho sự sinh tồn và phát triển đến ngày nay.

Giống như các bộ môn thuật số phương đông khác, bộ môn Phong Thủy cũng được xây dựng dựa trên triết lý của Kinh Dịch, vì vậy nó có nhiều điểm tương đồng cả ở trong các hệ phái Phong Thủy cũng như các môn thuật số bắt nguồn từ Kinh Dịch, ví dụ như môn Trạch Nhật, tức thuật chọn ngày giờ tốt. Phong Thủy và Trạch Nhật có thể nói là theo nhau như hình với bóng, Nếu như ta đã chọn được cuộc đất tốt lành theo thuật phong thủy, nhưng lại lập vận hoặc cải tạo vào thời gian không thích hợp thì chắc chắn người sống trên cuộc đất đó sẽ gặp phải tai họa.

Từ xưa đến cũng đã có quá nhiều ví dụ về việc dùng Phong Thủy không đúng thời mà phải chịu tai họa. Đơn cử như trong tác phẩm Tòng Sư Tùy Bút của Khương Diêu có nhắc đến một chuyện như sau:

Thông gia của tôi (Tức Khương Diêu) nhờ địa sư Quảng Diên ngoài mười năm mới tìm được cuộc đất cực đẹp. Vòng Giáp Tý niên hiệu Khang Hy thứ 23, vận 1 sơn Nhâm hướng Bính (Hướng nam). Sau khi táng một năm thì toàn gia bị bệnh dịch chết hết. Con cháu của họ tranh cãi về chuyện này cho đến tận ngày nay vẫn chưa dứt.

Vận 1, sơn Nhâm hướng Bính.

Phu tử Đỗ Lăng (Tức Tưởng Đại Hồng, sư phụ của Khương Diêu) lên núi quan sát thì cười mà nói: "Cuộc đất này đúng là đẹp, nhưng đáng tiếc phạm vào phản ngâm phục ngâm, gặp họa vì táng không đúng thời vậy!"

Qua câu nói trên của đại sư Tưởng Đại Hồng, ta có thể thấy được hai nguyên nhân dẫn đến kết cục bi thảm trên. Thứ nhất là cuộc đất phạm phản ngâm, phục ngâm. Thứ hai là táng không đúng thời.
Tạm gác lại lý do thứ nhất, ta hãy xem tại sao cuộc đất đó lại táng không đúng thời. 

1. Năm Giáp Tý thuộc tam hợp thủy cục, tam sát tại hướng nam, sơn Tị bị Kiếp Sát, phương Ngọ là Tai Sát, phương Mùi là Tuế Sát, hai phương Bính - Đinh phạm sát.

2. Năm Giáp Tý thượng nguyên, sao Nhất Bạch nhập trung cung, Ngũ Hoàng Đại Sát chiếu tới hướng nam.

3. Năm Giáp Tý, Thái Tuế đóng tại hướng bắc, Tuế Phá đóng tại hướng Nam.

Như vậy có thể thấy rằng cuộc đất tọa Nhâm hướng Bính mà táng vào năm Giáp Tý thượng nguyên sẽ phạm phải Tam Sát, Tuế Phá và Ngũ Hoàng Đại Sát. Cho dù hình thế Loan Đầu có hoàn mỹ đi chăng nữa nhưng lý khí Phong Thủy phạm phản ngâm phục ngâm, hung sát lưu niên tập trung ở hướng quá mạnh thì lập tức phát sinh tai họa là điều dễ hiểu.

Trong quá trình nghiên cứu và chiêm nghiệm Phong Thủy, bản thân tôi cũng đã chứng kiến những trường hợp gặp họa do hung sát lưu niên tập trung ở hướng bị kích động, đơn cử như một nhà tại quận Hoàng Mai - Hà Nội. Tọa tý hướng ngọ (Hướng nam), lập vào vận 7.

Vận 7, sơn Tý hướng Ngọ.

Nhà này lập trong vận 7, đắc cục Đả Kiếp, địa thế gần đường lớn. Bước qua vận 8 thì suy. Năm Nhâm Thìn 2012, Tam Sát tại hướng nam, đồng thời năm đó nhà nước cải tạo lại con đường phía trước mặt tiền nhà, xe tải chở đất đá và máy công trình hoạt động liên tục đã kích động tính hung của Tam Sát nên năm đó vợ của chủ nhà phát bệnh ung thư, May mà phát hiện kịp thời và điều trị sớm nên bệnh đã dứt.

Đây chỉ là một trong những ví dụ điển hình để nói lên sự tương tác của Phong Thủy với thời gian. Qua đó có thể thấy rằng nếu như ta được một cuộc đất tốt lành nhưng lập không đúng thời thì cũng phát sinh tai họa. Còn nếu như cuộc đất suy bại, gặp hung sát của Thái Tuế chiếu đến, thêm việc kích động lên thì họa đến khôn lường.
Cho nên người làm Phong Thủy đã tính toán được không gian của cuộc đất mà không tính đến thời gian lập vận thì đã phạm phải lỗi lớn vậy.


LƯỢNG THIÊN XÍCH

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...