Chuyển đến nội dung chính

KINH MẠN-THÙ-THẤT-LỢI CHÚ TẠNG TRUNG GIẢO LƯỢNG SỔ CHÂU CÔNG ĐỨC



Bấy giờ pháp vương tử bồ-tát mạn-thù-thất-lợi ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh trang y phục, để lộ vai phải, chắp tay cung kính thưa phật:
- bạch thế tôn! Hôm nay vì muốn làm lợi ích cho tất cả hữu tình, nên con sẽ nói về công đức thụ trì tràng hạt, đồng thời so sánh tính lường phúc phần lợi ích khác nhau của việc này. Cúi xin thế tôn thương xót cho phép!

Đức phật dạy:
-      này mạn-thù thất lợi! Quí thay, quí thay! Ta cho phép ông nói!
Được phật cho phép, mạn-thù-thất-lợi liền nói:
-      nếu thiện nam tín nữ nào tụng niệm các đà-la-ni và danh hiệu phật, vì muốn lợi ích cho mình cho người mà mau thành tựu và chứng nghiệm thì phải chuyên tâm thụ trì pháp lần tràng hạt như vậy. Nhưng vì chất liệu của tràng hạt có nhiều loại, nên công đức thụ trì cũng khác nhau.
Nếu có người dùng sắt làm tràng hạt, thì tụng và lần một biến sẽ được phúc gấp năm lần. 
Nếu dùng đồng đỏ làm tràng hạt, thì tụng và lần một biến sẽ được phúc gấp mười lần. 
Nếu dùng các báu vật như trân châu, san hô v.v… làm tràng hạt, thì tụng và lần một biến sẽ được phúc gấp trăm lần. 
Nếu dùng hạt của cây mộc hoạn làm tràng hạt, thì tụng và lần một biến sẽ được phúc gấp nghìn lần. 
Nếu dùng hạt sen làm tràng hạt, lần tụng một biến sẽ được phúc gấp vạn lần. 
Nếu dùng nhân-đà-la-khư-xoa làm tràng hạt, thì tụng và lần một biến sẽ được phúc gấp trăm vạn lần. 
Nếu dùng ô-lô-đà-la-khư-xoa làm tràng hạt, thì lần và tụng một biến sẽ được phúc gấp trăm ức lần. 
Nếu dùng thủy tinh làm tràng hạt, thì lần và tụng một biến được phúc gấp nghìn ức lần. 
Nếu dùng hạt bồ-đề làm tràng hạt để lần hay đeo tay, thì lần và tụng một biến kinh chú sẽ được vô lượng phúc, không thể tính toán và khó có thể so sánh suy lường. 
Nếu ai mong cầu được về cõi tịnh của phật a-di-đà thì phải y theo pháp mà thụ trì tràng hạt này.
Bồ-tát mạn-thù-thất-lợi nói tiếp:
-       nếu có người cầm tràng hạt bồ-đề này, nếu không như pháp tụng niệm danh hiệu phật và đà-la-ni, chỉ mang theo bên mình, thì khi đi, đứng, ngồi, nằm dù nói ra lời thiện hoặc lời ác cũng đều được công đức giống như người tụng chú và trì niệm danh hiệu phật, có được vô lượng phúc
Tràng hạt ấy cần phải đủ một trăm lẻ tám hạt. Nếu khó kiếm đủ số ấy thì năm mươi bốn, hoặc hai mươi bảy hay ít nhất là mười bốn hạt cũng được. Đó là công đức khác nhau của tràng hạt, nhưng vì nhân duyên gì mà hôm nay ta chỉ khen ngợi những ai dùng chuỗi hạt bồ-đề mới được lợi ích lớn nhất!
Bồ-tát mạn-thù-thất-lợi lại nói:
-      vì vào thời quá khứ có đức phật xuất hiện ở thế gian, ngồi bên gốc cây này thành chính giác. Bấy giờ có một ngoại đạo tà kiến hay hủy báng tam bảo. Con trai của ngoại đạo này bị phi nhân đánh chết. Ngoại đạo nghĩ: “ta mang tâm tà kiến, không biết chư phật có sức thần lực như thế nào mà nay ngồi nơi gốc cây này thành tựu chính đẳng chính giác. Nếu đó là cây thánh thì nhất định sẽ có cảm. Nghĩ xong, ông ta liền đặt đứa con đã chết nằm bên gốc cây bồ-đề và nói: “phật thụ nếu là cây thánh, thì nhất định con ta cũng sẽ sống lại!”. 
Rồi suốt bảy ngày, nhờ ông trì niệm danh hiệu phật nên người con sống lại. Ngoại đạo rất vui mừng, ca ngợi chư phật có sức đại thần thông. Ngoại đạo nói: “ta chưa từng thấy cây phật thành đạo hiển hiện những việc hi hữu này. Đúng là oai đức rất lớn, không thể nghĩ bàn!”. Các ngoại đạo khác nghe việc này, liền phát tâm bồ-đề bỏ tà qui chính, tin thần lực của phật không thể nghĩ bàn. Do nhân duyên này mà mọi người đều gọi cây này là cây diên mạng. Từ đó cây này có hai tên: bồ-đề thụ và diên mạng thụ
Bồ-tát mạn-thù-thất-lợi nói xong, đức phật liền dạy:
-      hay thay, hay thay! Này mạn-thù-thất-lợi, đúng như lời ông đã nói!
Đại chúng nghe nói kinh trì châu công đức xong, tất cả đều vui mừng tin nhận và cung kính làm theo.

Hán dịch: Tam tạng sa-môn Thích Nghĩa Tịnh.
Việt dịch: Tì-kheo-ni Tịnh Hiền
LƯỢNG THIÊN XÍCH. St

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

Bình giảng lá số tử vi trọn đời cho một vị nữ 1987

Nhân sanh Đinh tự biến thành Du Gia thất tiền tài thường đảo lộn Thiến niên lao khổ uổng công phu Trung vận trùng lại phú đắc vinh   Tạm dịch: Chữ Đinh biến thành chữ Du Số nhỏ bịnh tật ốm đau thường thường Lắm lần tai nạn thảm thương Nhờ có hồng phước Phật Trời chở che Lớn lên thông tuệ khác thường Có quyền, có chức, có tài tự nhiên Có chí sáng tác mọi ngành Có tài có đức cầm quyền điểm binh Xét xem qua số nợ duyên Trai đôi ba vợ gái thì truân chuyên Nết na đức hạnh dung hoà Nhưng mà cũng chịu vui buồn chiều mai Cho hay căn số tự trời Duyên đầu lỡ dở hiệp hòa duyên sau Có căn tích thiện tu nhân Tuổi già chung hưởng lộc tài ấm no Âm Nữ Tuổi Đinh Mão ,Chiều Âm Dương Thuận Lý, Mệnh An Tại Mão , Thân An Tại Tị    Lá số có cách cục Mệnh Vô Chính Diệu hội Nhị Không, Mệnh an tại cung Mão nằm trong tam hợp cục địa chi Hợi Mão Mùi có ngũ hành là Mộc cục đương số có tuổi Đinh Mão cùng thuộc tam hợp cục là Mộc cục nên tính chất ngũ hành tam hợp cục Mệnh tương sinh cho ngũ hành tam ...