Chuyển đến nội dung chính

CẢI TỬ HOÀN SINH NHỜ QUẺ DỊCH

Kinh Dịch là một bộ môn triết học cổ ẩn chứa rất nhiều sự vi diệu của cuộc sống. Không những là môn triết học tìm hiểu về nhân sinh quan, thế giới quan của người xưa, Kinh Dịch còn là một môn dự trắc rất sâu rộng. Hầu hết các vấn đề của cuộc sống, chúng ta đều có thể tìm được lời giải đáp dựa vào phương pháp gieo quẻ.

Trong kho tàng Dịch Học Đông Phương có rất nhiều ghi chép về những nghiệm chứng của tiền nhân để lại, trong đó đáng chú ý là các nghiệm chứng kết hợp Dịch Lý và Y Lý để chẩn bệnh cứu người.

Sách Tăng San Bốc Dịch, Dã Hạc Lão Nhân có để lại một chứng nghiệm rất có giá trị về mặt học thuật như sau:

Một hôm, mới đầu canh một đã có người gõ cửa nói rằng: "Cậu chủ nhà tôi có bệnh, xin mời thầy đến xem giúp một quẻ." Ta (Tức Dã Hạc Lão Nhân) hỏi xem mắc bệnh bao giờ? Đáp rằng từ Sơn Đông trở về liền mắc bệnh. Ta liền tự xem một quẻ, lúc đó ngày Nhâm Tý, tháng Mùi, được quẻ Tiết biến Tỷ.


Hào tài tị hỏa trì thế, được hảo tử tôn động tương sinh nên đi sẽ có ích. Khi đến nhà người này gặp lúc thầy lang đang bốc thuốc.

Ngày Nhâm Tý, cha xem về bệnh của con, được quẻ Giải biến Khảm.


Ta nhìn quẻ này thì sinh nghi, bệnh gần gặp quẻ lục xung sẽ không đến nỗi chết. Nhưng tử tôn lại biến quỷ, lại chủ về ốm chết, nên không dám đoán ngay, mà lại bảo người thâm xem lại. Chú xem về bệnh của cháu được quẻ Khôn.


Lại gặp quẻ lục xung nên bệnh này không thể chết được. Bèn hỏi xem trước đây có mắc bệnh gì không, người nhà bèn đáp rằng: Chưa hề mang bệnh. Suốt trên đường từ Sơn Đông về cũng không ốm đau gì. Đột nhiên đến chiều tối lăn lộn khắp giường, cấm khẩu không nói được. Ta bèn nói:

- Nếu không phải là tái phát bệnh cũ, ta đảm bảo sẽ nhanh chóng khỏi bệnh.

Lại mời thầy lang xem quẻ, được quẻ Tỉnh biến Minh Di.


Hào ứng chỉ bệnh nhân, hào thế khắc hào ứng, thì không đáng ngại, vì là khắc chế bệnh của bệnh nhân. Nhưng hiềm vì hào ứng hóa hồi đầu khắc, nên chắc chắn là do dùng nhầm thuốc.

Ta bèn hỏi chủ nhà rằng:

- Đã uống thuốc chưa?

Đáp rằng: "Chưa nấu xong".

Ta lại hỏi thầy lang:

- Người này mắc bệnh gì? Đã kê những loại thuốc gì?"

Thầy lang bèn đáp:

- Vào ngày tam phục, do trên đường đi trúng nắng, nên chỉ khai đơn thuốc mát giải nhiệt.

Ta bèn nói riêng với chủ nhà rằng:

- Con trai ông đáng ra không chết, nhưng lại gặp quẻ phải chết, e rằng do thuốc không đúng bệnh, nên mời thầy thuốc xem lại.

Thầy lang nói bệnh nhân liên tục lăn lộn, không bắt được mạch, bèn hỏi gia nhân xem tình hình đi đường ra sao, người nhà bèn đáp:

- Đến nhà thấy quá nóng nực, bèn chuyển giường ra chỗ đón gió ngoài hành lang, đặt hai tảng đá lạnh lớn ở phía dưới giường, sai nữ tỳ đến quạt, một chốc đã ngủ say. Bỗng dưng lăn lộn, kêu lên mấy tiếng, rồi cấm khẩu không nói được.

Như vậy, người đang nóng bức mà nằm trên đá lạnh, đón gió, lại bảo nữ tỳ đến quạt, nguyên nhân mắc bệnh vì đâu đã rõ. Thầy thuốc bèn nói:

- Lúc tôi đến xem bệnh, đã dìu người bệnh vào trong phòng, nên không biết chuyện này, nếu thế thì không thể uống thuốc giải nhiệt được.

Ta bèn nói:

- Dùng phụ tử, nhục quế có thể chữa được.

Rồi bảo người cha xem một quẻ.

Ngày Nhâm Tý, xem dùng phụ tử có được không, được quẻ Đại Hữu biến Đại Súc.


Hào tử tôn lâm nhật thần, được hào huynh dậu kim động mà tương sinh, nên đây là phương thuốc hữu hiệu, sẽ lập tức chữa khỏi bệnh.

Thầy thuốc thử dùng nước gừng khô đổ cho, một lúc thì nói được, bảo rằng bụng đau kịch liệt. Ta bèn nói: Mau cho uống thuốc.

Thầy thuốc bèn chữa trị, gia giảm một đêm, đến sáng hôm sau thì khỏi hẳn.

Người này không chết được, vì trước khi ta đến, đã xem được quẻ tử tôn phát động. Về sau xem liền mấy quẻ, tổng hợp lại để suy đoán mới dám dùng thuốc cực nhiệt để cải tử hoàn sinh. Nếu không, cho bệnh nhân uống đơn thuốc giải nhiệt, đã hàn lại thêm hàn, sao có thể sống được.

Thông qua nghiệm chứng này ta thấy rằng Dã Hạc Lão Nhân xưa dụng quẻ thật tài tình, đã kịp thời cùng với thầy thuốc tìm rõ căn nguyên gây bệnh để kịp thời đổi thuốc, cứu sống được 1 mạng người.


LƯỢNG THIÊN XÍCH.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

Bình giảng lá số tử vi trọn đời cho một vị nữ 1987

Nhân sanh Đinh tự biến thành Du Gia thất tiền tài thường đảo lộn Thiến niên lao khổ uổng công phu Trung vận trùng lại phú đắc vinh   Tạm dịch: Chữ Đinh biến thành chữ Du Số nhỏ bịnh tật ốm đau thường thường Lắm lần tai nạn thảm thương Nhờ có hồng phước Phật Trời chở che Lớn lên thông tuệ khác thường Có quyền, có chức, có tài tự nhiên Có chí sáng tác mọi ngành Có tài có đức cầm quyền điểm binh Xét xem qua số nợ duyên Trai đôi ba vợ gái thì truân chuyên Nết na đức hạnh dung hoà Nhưng mà cũng chịu vui buồn chiều mai Cho hay căn số tự trời Duyên đầu lỡ dở hiệp hòa duyên sau Có căn tích thiện tu nhân Tuổi già chung hưởng lộc tài ấm no Âm Nữ Tuổi Đinh Mão ,Chiều Âm Dương Thuận Lý, Mệnh An Tại Mão , Thân An Tại Tị    Lá số có cách cục Mệnh Vô Chính Diệu hội Nhị Không, Mệnh an tại cung Mão nằm trong tam hợp cục địa chi Hợi Mão Mùi có ngũ hành là Mộc cục đương số có tuổi Đinh Mão cùng thuộc tam hợp cục là Mộc cục nên tính chất ngũ hành tam hợp cục Mệnh tương sinh cho ngũ hành tam ...