Chuyển đến nội dung chính

Lá số của một vị Tiến Sỹ nổi danh

Đây là lá số tôi xem trực tiếp do đương số cung cấp giờ sinh và tướng mạo. Mới nhìn thoáng qua lá số này là tôi biết đương số sung sướng từ thuở lọt lòng mẹ, và lại thông minh uyên bác, học vấn đỗ đạt cao nữa.
1/ Mệnh thân của đương số đồng cung tại dần có hai đại phúc tinh là Thiên đồng Thiên Lương tọa thủ, lại đắc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, cung phúc đức đắc nhiều trung tinh sáng sủa hội tụ vì thế nên bổn mệnh của đương số vững vàng lắm. Vì có hai đại phúc tinh Đồng Lương thủ mệnh nên đương số hưởng được nhiều phúc lành của đấng linh thiêng và sẽ được thượng đế phù trì cho tới mãn đời.
2/ Đương số tuổi quý mão kim mệnh, thiên can Quý (thuỷ) sinh nhập địa chi Mão (mộc) nên cuộc đời đương số được hưởng nhiều may mắn do hoàn cảnh gia đình và xã hội đem. Từ lúc lọt lòng mẹ cho tới ngày khôn lớn trưởng thành thì đương số được cha mẹ nuôi nấng săn sóc rất sung túc no đủ và luôn cả sự học hành cũng rất là hậu hỉ. Đó cũng là bởi vì cung phụ mẫu nhị hợp (phù trợ) cho cung tài bạch và thiên can địa chi sinh nhập đó vậy.
3/ Đây là là số "nổi danh thiên hạ". Hoặc ít ra là đương số sẽ sành sõi về một lãnh vực gì đó mà thiên hạ biết đến và họ phải khâm phục mà công nhận. Theo tôi thì đương số thành công về lãnh vực khoa bảng nhiều hơn. Và lá số này lại được hưởng cả 3 điều Phú Quý và Thọ nữa.

Nhìn vào cung mệnh của đương số thì biết ngay rằng tâm tính của người này rất nhân ái từ thiện,phúc hậu, hiền lành tử tế, có lúc lại hơi nhút nhát và lập trường không vững nữa. Đương số mộng cao lắm, tự tin và lại hay thay đổi lập trường lẫn chí hướng. Hay tin người quá đáng nên dễ mắc lừa và về cuối thường hay hối hận lắm. Thông minh uyên bác sắc sảo mà lại đạo đức từ thiện, quả thật đây là mẫu người đáng trọng và rất cần thiết cho xã hội. Đương số thuở trẻ hay thay đổi chí hướng mục tiêu và lại không bền chí, tuy bản thân rất thông minh. Cũng bởi vì lý do không chuyên tâm bền chí ấy nên tới giờ đã trên 40 tuổi mà đương số vẫn chưa nổi danh trong thiên hạ. Nhưng không sao cả bởi vì lá số này phát vào lứa trung niên trở đi, càng về cao niên càng thành tựu.



Cung Phúc ở Thìn mới nhìn thì xấu: Thái dương ngộ tuần nên hãm địa nhưng gặp Thiên không và Đào hồng làm cho sáng lại, rồi còn có đệ nhất giải thần Hoá khoa cứu gỡ. Tựa hồ như "chim tháo củi sổ lồng" mà thoát nạn vậy. Lại may mắn hội họp thêm nhiều trung tinh đắc cách: Tả hửu xương khúc thai tọa cáo phù Khoa quyền lộc Song Long Tứ Đức. Vì thế đương số hưởng được phúc nhà nhiều lắm. Tuy nhiên vì cung Phúc ngộ tuần, nên nếu đương số làm ăn hoặc sinh sống càng xa nơi chôn nhau cắt rốn thì càng thành công. Lá số này có sao Văn xương tọa thủ tại cung phúc đức "đặc biệt" lắm. Sao Văn xương này ở cung Phúc đức rất là "đặc biệt". Lá số này không có con (hoặc ít ra là chỉ có con gái mà không có con trai) vì cung tử tức tại hợi quá xấu nằm trong thế nhị hợp mệnh tại dần. Nhưng có thể là do cơ duyên mà lấy được bà vợ vượng phu ích tử nên mới có được hai người con trai. Âu cũng là điều may do phúc đức mà đương số hưởng được. Cung tử tức này chi phối khá nhiều đến sự nổi tiếng và thành công của đương số trong tương lai. Mệnh đương số nhị hợp cho cung phúc thứ hai quá xấu này (tử tức) mà đương số lại có hai đứa con trai thì sau này sự nổi tiếng và danh giá của anh sẽ có phần giảm thiểu một chút.

Đương số nên làm ăn xa mới thành công hơn. Vì cung Phúc ngộ tuần, hơn nữa Quan lộc nhị hợp Nô bộc và lại có Hoá Lộc tại đó nữa. Trong việc mưu sinh đương số phải nhờ cậy hoặc ít ra là liên hệ chặt chẽ với đồng nghiệp nhiều lắm. Và trong bất cứ mọi trường hợp giao tế nhân sự nào thì đương số cũng bị thiệt thòi. Số này hy sinh cho thiên hạ, tuy nhiên điều này rất cao quý. Đương số hay bị hoàn cảnh xã hội chi phối nên hay bất mãn, và lại hay thay đổi chí hướng nhiều lắm.

Đương số khi bước vào đại hạn 32-41 tuổi ở cung tử tức thì rất là thăng trầm: Thành công nhiều mà thất bại không phải là ít, đông thành tây bại và lao tâm khổ tứ. Mệnh có Cơ nguyệt đồng lương mà vào đại hạn Sát phá tham là phạm vào hạn Trúc la nên sóng gió lắm, lại gặp nhiều sát bại tinh như hỏa đà mã hình riêu không kiếp kỵ, nhưng may mắn nhờ có thái tuế đắc tứ linh phù trợ và Lộc quang quý khôi việt phúc giải nguy cùng với mệnh cung vững vàng nhị hợp nên cũng được phần nào thành công. Đương số đã học được rất nhiều bài học kinh nghiệm mà cuộc đời phong trần này dâng tặng ở đại hạn tử tức vừa rồi. Vì thế nên có thể gọi đại hạn vừa rồi là căn bản, nền tảng cho sự thành công rực rỡ của đại hạn 42-51 tuổi này đây.

Đại hạn 42-51 Thái Âm Miếu gặp Hóa Khoa, Khúc, Tam Thai, Thiên Trù, Hữu Bật đương số sẽ hưởng được rất nhiều danh tiếng và tiền bạc trong đại hạn này. Và có thể nói rằng đây là đại hạn thành công nhất đời đương số. Đại hạn này được chia ra làm ba thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là từ 42-44 tuổi đương số dự trù kế hoạch nhiều lắm. Thời kỳ thứ hai là từ 45-48 tuổi đương số sẽ thực hành những dự trù, những kế hoạch ấy và sẽ phải làm việc nhiều lắm. Thời kỳ thứ ba là 49-51 sẽ thành công rực rỡ.


Khi đương số bước vào tuổi 52 thì sang Đại hạn tật ách. Ở đây có thiên phủ tọa thủ đắc cách phủ tướng triều viên, lại ngộ song hao đắc địa, mà lại ở cung kim hợp với bổn mệnh mình nữa. Đại hạn này lại là khoảng thời gian thụ hưởng và tiếp tục những gì đã thành công trong đại hạn tài bạch vừa rồi. Đại hạn này rất tốt vì kim mệnh đáo dậu cung.

Năm Kỷ dậu 2029 là năm đương số đúng 67 tuổi. Đây là năm thiên khắc địa xung tối độc. Sẽ bị bệnh nặng. Nếu vượt qua được thì sẽ sống tới ngoài 82 tuổi (khi vào đại hạn quan lộc).

Nói tóm lại thì lá số tử vi của đương số là 70% tốt. Anh hưởng được cả ba điều phú quý thọ. Phú quý thì ở mức trung, còn thọ thì ở mức đại thọ. Kết hợp với tướng pháp, tam đình đều sang sủa, mũi chuẩn đầu đép, dày dặn, nhân trung dài, sâu rộng, địa các nở nang. Vì thế trung và hậu vận của đương số tốt là điều không thể bàn cãi.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...