Chuyển đến nội dung chính

Lá số nữ Bính Dần, hay ngã xe。

Nhân sanh Bính tự biến thành Tù
Lão thiếu vô an hạn bất chu
Sở hữu ngoại nhân y hữu định
Thân cư quan quý bá niên trường

Tạm dịch:
Chữ Bính số cũng quạnh hiu
Người sanh chữ ấy trọn đời âu lo
Tuổi nhỏ bịnh hoạn ốm đau
Lớn tuổi cô quanh một mình thảm thương
Số này lập nghiệp tha phương
Có chí tu niệm kính tin Phật Trời
Nếu mà giữ dạ hiền lương
Tuổi già sẽ được lộc tài tự nhiên
Những người có chí thiện nhân
Có khi lao khổm, có ngày thảnh thơi



Đương số mệnh hỏa nằm trong tam hợp Thân Tý Thìn thuộc thủy nên bị địa bàn sinh khắc. Mệnh hỏa vô chính diệu có 2 sát tinh hỏa hãm địa nằm tại cung thân thì thể hiện sự bạc nhược của Linh Hỏa hãm làm mất vẻ hiên ngang chí khí nhưng lại hợp với nữ giới. Mệnh âm nữ nằm ở cung dương thì biết điều hay lẽ thiệt biết mình biết ta. Sức khỏe không tốt lắm tính tình chắt chiu cẩn thận đứng đắn và không linh hoạt trong suy nghĩ ( Thiên hình đắc địa). Mệnh có Song hao thì tính tình chân chất không quyết đoán bộ máy tiêu hóa kém. Thiên mã cư cung Thân thì bạc nhược cho người mệnh hỏa qua đấy cũng thể hiện đương số không đủ nghị lực để tranh đấu với ba mẹ để thực hiện ước muốn bản thân và thường phải buông xuôi nghe theo. Con gái có Phượng các giải thần ở mệnh thì người hình dáng đẹp như sông bể. Do có cự nhật bát tọa tam thai thái âm chiếu về thì mặt hơi có nét cương nghị tròn và sáng sủa, da trắng hồng tóc màu hạt dẻ hoặc hơi hung đỏ dáng cao. 
Quan niệm về gia đạo của đương số ví như một phụ nữ sành sỏi và sắc sảo nói vậy mới diễn đạt hết được ý nghĩa. Cái này chắc phải sau 35tuổi đương số mới thấy rõ và chỉ rõ ràng sau khi lấy chồng được gần chục năm.“ Thân” cư phu vô chính diệu có một Địa không độc thủ được Nhật Nguyệt hợp chiếu thì tư tưởng của đương số phải nói đúng là một cô gái sắc sảo với cuộc sống. Quan niệm và hành động của đương số kiểu như là đã biết quá rõ thân phận là con gái của mình dù giỏi thế nào quan trọng nhất vẫn là tấm chồng. Tư tưởng cư ngọ nhìn xuống Di và quan lộc thấy thái dương sáng sủa như ánh bình minh, Thái âm hơi ám ( do có riêu) nên đương số nhìn xã hội và cuộc sống càng rõ rệt  và chịu ảnh hưởng tốt từ môi trường và xã hội mình đang sống.

Phụ mẫu: 
Liêm Phá đồng cung đi cùng văn khúc và hóa kỵ đàn áp rất ác nghiệt với người mệnh Hỏa. Ở cung phụ mẫu thì hoàn toàn đàn áp đương số rồi.Tôi đoán chắc bố mẹ đương số rất nghiêm khắc nhiều lúc phải nói là độc tài độc đoán với đương số. Chắc 2 cụ hiếm khi hỏi là đương số muốn cuộc sống sau này ra sao và đương số muốn làm việc gì đúng chứ? Bố mẹ đương số làm công việc có tính chuyên sâu về công nghệ và kỹ thuật phải không? 
Quan lộc: 
Có Thái âm Thiên Đồng đi cùng hóa lộc riêu y thiên trù tam thai điếu khách thì đương số làm nghề gì như kiểu là mở của hàng lớn bán buôn thuốc và ẩm thực thì phát đạt. ( nếu đủ gan buôn thuốc phiện thì đừng hỏi).  Nếu không đương số mở tiệm spa làm đẹp mát xa và dinh dưỡng cho các quý bà quý cô thì lại càng trúng cách và giàu to. Trong công việc đương số là người biết ngọt nhạt để làm hài long người khác vì thế mở Spa là số một đó.  
Nô bộc: Bạn bè tôi tớ đều là người rất tận tụy đắc lực và sẽ giúp đương số nhiều trong công việc và cuộc sống. Bạn bè đều là người có máu kinh doanh và làm việc rất hiệu quả. Đều là người có danh chức trong chính quyền. Giữa bạn bè với nhau đương số rất hay tếu vui vẻ và rất hay tán nhau 
.
Tài bạch: Cơ lương gặp triệt bị địa kiếp đà la thụt két. Đà la ngầm ám đi với địa kiếp và hóa quyền nhìn giống như kiểu phải vận động hành lang mất tiền ngầm mới được việc ấy. Ngoài 30 điều này càng thể hiện rõ. Hay phải ai oán về tiền bạc và vì nó đương số sẽ chỉ them lo âu mệt mỏi thôi. Trong vấn đề tiền nong tuyệt đối phải cẩn trọng rất dễ bị kẻ gian lừa bịt, thậm chí cướp giật.
Tử tức: 
Tử Sát đồng cung vô sát tấu đi cùng khoa lộc văn xương nghênh ngang một cõi. Chỉ một triệt làm gãy nát cả quả là đáng tiếc cho đương số. Con cái em sau rất thông minh và giàu có tài giỏi. Triệt ở đây theo tôi nghĩ nếu sinh con đầu lòng là con gái thì sau khó nuôi và bất lợi về đường con cái, dễ xảy thai. Đứa trước và đứa sau khá cách biệt về tuổi. Nếu sinh đến đứa thứ 3 mà là con trai thì tất nó là quý tử và sau đương số nhờ được nó nhiều lắm. ( Mệnh ở Thân thì được sinh nhập ở tử tức). 
Điền sản: Thiên Phủ ngộ Tuần Hữu Bật Thiên Khôi, Nhà đất được bền vững và lâu dài, trông khang trang có dáng dấp rất to hoành tránh nhưng không đẹp lắm hay bị trũng nước. Do được tuần bao kín tôi đoán là nó ở trong ngõ đường cái đi không được rộng lắm. Khi mua bán nhà cửa đất cát rất dễ được người khác dang tay trợ giúp về tiền bạc cũng như giấy tờ thủ tục.
Tật ách: Đương số có tật hay tán và ham chơi, thích thể hiện bản thân thích những thứ phù phiếm thích được thể hiện mình thích được khen xinh đẹp , hay thích đi chơi xa phiêu lưu mạo hiểm. Có tật là thích tìm hiểu cặn kẽ vấn đề nào bị chê chưa hay. Cũng một tật khác là dễ dính vào những mỗi tình ngoài nề. Mệnh Thiên Hình Hỏa Linh Mã, nên rất hay ngã xe và ngã thì ngã rất đau, đương số phải lưu ý,dễ mắc bệnh nóng trong。 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...