Chuyển đến nội dung chính

Lá số Nữ Kỷ Tỵ hứa hẹn giàu có nhưng kiệt sỷ.

Nhân sanh Kỷ tự biến thành Ân
Gia thất tiền tài mạng giàu sang
Gia sự đa tài, sanh con thảo
Hữu thời tấn thối tợ phi vân

Tạm dịch:
Chữ Kỷ biến thành chữ Ân
Tánh thì mau mắn làm ơn cho người
Tấm lòng trung trực vẹn bề
Làm ơn nên oán, nhiền lần tân toan
Của, Con có sẵn tuổi già
Tuổi trẻ lao khổ tha phương lập thành
Nhiều khi tụ tán như sương
Khi ăn chẳng hết khi thì tay không
Nợ duyên tan vỡ buồn lòng
Đôi lần ly hiệp mới nên gia đình
Khá nên tích thiện tu thân
Tuổi già sẽ thấy môn đình sum vinh



Đương số âm nữ Mệnh mộc nằm trong tam hợp dần ngọ tuất thuộc hỏa tức là mệnh sinh xuất cho địa bàn, Vòng lộc tồn ở thế lộc tồn quốc ấn tướng quân bệnh phù, Mệnh đoạt cả hóa lộc có vũ khúc tài tinh đi với tả phù đã cho thấy bản thân tố chất tài năng là có thừa để đạt được hạnh phúc. Vòng trường sinh vốn là tư cách cá nhân ở thế hành động chính đáng được chúng nhân ngưỡng mộ và nể phục. Vũ khúc vốn khắc hành bản mệnh lại ở cung tuất dương cung thì là người đắc luôn cả nhân hòa. Nhưng vì tuổi Kỷ tị nên dù sao hạnh phúc đạt được cũng vẫn là ở thế nghịch cảnh ( lộc tồn bị thiên không đứng cùng lưu hà có kiếp sát ở dần phụ vào thì khác gì miếng mồi thơm béo bở đã bôi sẵn chất độc hà sát và đương số quả thật “Thân” cư tài bạch không ham mới là chuyện lạ. Mệnh có vũ khúc vốn đã diễn tả cảnh cô đơn của sao này lại khắc hành bản mệnh nên có thể hiểu là vì lộc mà bị kẹt được lộc thì cũng bị nó chi phối mệnh mình vậy cả đời chạy theo vũ khúc tài tinh. Người âm nữ mệnh ở cung dương thì là người biết lui tới biết mình biết ta. Tính tình đúng thuộc kiểu yểu điệu thục nữ quân tử hảo cầu. da trắng tóc mây môi đỏ miệng son. Bên ngoài thì vui vẻ hòa duyệt mà bên trong hiên ngang anh khí lẫm liệt. Người nhiều hiểu biết ham tìm tòi và hay kiểu thiếu một chút may mắn để thành hoàn hảo. 
Lá số này thuộc dạng tài tinh thì ăn học cao đàng hoàng tính tướng quân bị tuần bao kín và vũ khúc khắc hành bản mệnh thì nói thật chuyện bằng cấp là thuộc dạng truyền thống gia đình phải thế rồi. Có nghênh ngang thì cũng là ở thế phải như vậy để tiếp nối truyền thống cha ông  


Công việc sau này: Đương số sẽ thành công lớn về nghành tài chính và ngân hàng. Đặc biệt là tài chính quan lộc có tử phủ quốc ấn đồng cung đi cùng hóa kỵ và văn khúc thì trong công việc đòi hỏi chuyên môn cao hay bị điều tiếng về chuyện tiền bạc dễ mắc khẩu thiệt trong tiền bạc ,công việc do quốc ấn bị bôi hoen bởi hóa kỵ. Nhưng mà cũng chả sao vì mệnh mộc tương sinh với hóa kỵ. Đương số là người nói người khác nhiều chứ ít ai nói được đương số.

Tình duyên gia đạo: 
Phu cung có Thất sát độc thủ nằm trong cung Thân bị triệt. Thế đứng này tuy là triệt đáo kim cung nhưng nói thật chỉ tốt đẹp với người mệnh kim. Mệnh mộc thì nó diễn tả cảnh vợ chồng đương số đều cương cường hiếu thắng, Bị chồng khống chế ( kim khắc mộc) nếu lấy chồng sớm thì dám là đổ vỡ thẳng cẳng tan đàn xẻ nghé chỉ vì đôi bên đều có tài và cứng rắn chẳng ai chịu nhường ai. Chồng là người có tài có năng lực xứng với thực chất tính tình hòa nhã cả tin có tính tiếu lâm, thích ăn nhậu. Chồng đương số có thể là con thứ nhưng thay trưởng lo cho gia đình ( thiên việt độc thủ). Khuyên đương số nên lấy chồng muộn hoặc chồng hơn vợ nhiều tuổi thì tốt. 
Do phúc đức cung có phá quân là tượng trước phá sau lập lại ở thế xung lên với cung tài bạch có “Thân” cư. Hội cùng Thất sát thì sau khi lấy chồng có thể định cư nước ngoài ( phá tán tổ nghiệp rồi ra nước ngoài lập lại nghiệp bền vững). Bản thân đương số cũng có tư tưởng lập thân nơi xa Lưu Hà.


Về cung tài bạch: Liêm Tướng cư Ngộ có Song Lộc chiếu mệnh Vũ Khúc Tài Tinh hợp Lộc thế này sau này cho thấy đương số là người giàu có, có khả năng kiếm tiền nhanh và dễ dàng, cũng là người hơi hám tiền đến mức cô độc.

Trần Tiên Sinh。

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...