Chuyển đến nội dung chính

VẬN KHÍ PHONG THỦY NHÀ MỘT HỌA SĨ Ở HUYỆN THANH TRÌ - HÀ NỘI

Ngôi nhà năm trong khuôn viên rộng hơn 400m2 gồm có hai ngôi nhà độc lập. Một nhà cấp bốn xây từ thập kỷ 90, ngôi nhà đang ở xây năm 2002. Cả hai nhà đều tọa càn hướng tốn, kiêm hướng, vận 7 diễn số phong thủy như sau:

Tọa Càn hướng Tốn. Vận 7

Địa thế của ngôi nhà không được tốt lắm. Nhà nằm cuối ngõ cụt, hướng đông bắc có gò cổ, âm khí của hài cốt vẫn còn đó.

Luận về lý khí phong thủy thì nhà này có cục thế Hỏa khanh nên đinh - tài đều kém. Hướng nhà có sát khí Ngũ hoàng chiếu đến nên tài chính hao tổn, là sát khí nên người nhà phát sinh bệnh khó chữa, đặc biệt là về ung thư, tỳ vị. Lại có thương kiếm sát chiếu đến nên phát sinh thêm bệnh về phổi, họng hoặc thương tổn bởi kim loại gây ra.

Hướng đông bắc có sao Cửu tử, là cát khí sinh tài, đáng tiếc là có gò đất, âm khí tích tụ tại đó nên tài khí bị thất hãm, không phát huy được.

Sau quả nhiên chủ nhà phản hồi lại thấy đều ứng nghiệm như trên. Trước cả gia đình ở khu vực khác, từ khí chuyển về đây thì gia đạo đi xuống, đặc biệt về sức khỏe đã có người mắc bệnh ung thư, hầu như ai cũng bị bệnh về hệ tiêu hóa, tài chính không tích tụ được, gia đạo trì trệ.

Nhà này chỉ cần tu sửa lại để đón khí của vận 8 thì tự nhiên cát tường, gia đạo hưng vượng, bởi lẽ được cục thế Châu bảo, đinh - tài và công danh, học nghiệp phát đạt, đồng thời hóa giải được sát khí. Tuy nhiên vì nhà ở gần nơi có âm khí của hài cốt tích tụ nên dù vượng khí chiếu đến sơn và hướng cũng không phải bảo địa để phát triển dài lâu.

Tọa Càn hướng Tốn. Vận 8.



LƯỢNG THIÊN XÍCH

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...