Chuyển đến nội dung chính

KHÔNG GIAN - THỜI GIAN TRONG HỌC THUYẾT PHONG THỦY

Phong thủy học là một bộ môn nghiên cứu và dự trắc có tính quy luật dựa trên yếu tố không gian và thời gian. Vì vậy nếu chỉ chú trọng vào không gian sống, về bố cục nội thất, ngoại thất không thôi thì chưa đủ, cho nên cần phải tính đến yếu tố thời gian để định được thời kỳ thịnh - suy của trạch vận.

Về lý thuyết, thời gian được sinh ra từ sự vận động của vũ trụ, là một khái niệm để diễn tả trình tự xảy ra của sự vật, sự kiện và khoảng kéo dài của chúng. Cho nên học thuyết Phong thủy rất coi trọng yếu tố thời gian khi xét đoán trạch vận của một ngôi nhà. Thời kỳ nào thịnh, thời kỳ nào suy, tất cả phải dựa vào bố cục không gian của ngôi nhà đó kết hợp với thời gian thì mới rõ được.


Vậy Phong thủy học kết hợp hai yếu tố Không gian - Thời gian bằng cách nào? Để giải quyết vấn đề Không gian, Phong thủy học chia vòng tròn không gian 360 độ thành 8 hướng, mỗi hướng 45 độ, gồm: Đông, đông nam, nam, tây nam, tây, tây bắc, bắc, đông bắc. Trong tám hướng đó, mỗi hướng lại chia thành 3 cung, mỗi cung 15 độ, gồm:

- Hướng đông có cung Giáp, Mão, Ất

- Hướng đông nam có cung Thìn, Tốn, Tị

- Hướng nam có cung Bính, Ngọ, Đinh

- Hướng tây nam có cung Mùi, Khôn, Thân

- Hướng tây có cung Canh, Dậu, Tân

- Hướng tây bắc có cung Tuất, Càn, Hợi

- Hướng bắc có cung Nhâm, Tý, Quý



Thậm chí các cung này còn được chia nhỏ thành 5 độ, 3 độ để chi tiết hóa không gian.

Về yếu tố thời gian, Phong thủy học chia thời gian thành từng "Nguyên" và "Vận". Có 3 Nguyên, mỗi Nguyên gồm 60 năm, được chia thành 9 vận, mỗi vận 20 năm. Dựa trên công thức tính toán, chúng ta có được bảng liệt kê Tam nguyên Cửu vận như sau:


Theo biểu liệt kê trên cho thấy, chúng ta đang sống trong thời kỳ vận 8 của Hạ nguyên, bắt đầu từ năm Giáp Thân 2004. Đến năm Giáp Thìn 2024 sẽ hết vận 8 và bước vào thời kỳ của vận 9 cai quản. Nếu nhà nào xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến năm 2023 thì đều thuộc vận 8 cả, và tất nhiên sẽ lấy trạng thái thời gian trên để tính toán sự hưng suy.

Lấy ví dụ một ngôi nhà có hướng 180 độ, thuộc cung Ngọ, hướng nam, xây dựng năm 2015.


Như vậy, hướng nhà thuộc cung Ngọ 180 độ là sự cụ thể hóa của không gian, xây dựng năm 2015, thuộc vận 8 là sự cụ thể hóa của trạng thái thời gian. Có được hai dữ liệu trên mới có thể dùng kiến thức Phong thủy để luận đoán sự hưng suy cũng như tìm những phương vị có trường khí tốt chiếu đến để kích hoạt và hóa giải những phương vị có trường khí xấu.

Việc lấy không gian và thời gian làm căn cứ lý luận được phái Phong thủy Huyền Không vận dụng rất thành công. Đây cũng là điểm khác biệt quan trọng, là nét đặc trưng riêng của trường phái này. Theo lý thuyết, bất kể một ngôi nhà nào cũng có thời gian thịnh và thời gian suy. Không có gì là tốt mãi mãi hoặc xấu mãi mãi, như vậy mới phù hợp với sự biến thiên của tạo hóa, cho nên yếu tố thời gian dùng để đo lường, tính toán thời kỳ vượng suy, giúp con người lựa chọn được thời kỳ hưng thịnh để mở mang sự nghiệp, thời kỳ suy thoái để thâu tàng. Câu "Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong" của người xưa cũng từ ý này mà ra.


LƯỢNG THIÊN XÍCH

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...