Chuyển đến nội dung chính

PHÁT BỆNH TÂM THẦN DO Ở NHÀ CÓ PHONG THỦY XẤU

Tại một ngã tư sầm uất ở thành phố Thanh Hóa có một ngôi nhà trông khá cũ, với kiến trúc dạng ống, được xây dựng vào năm Canh thìn 2000. Ngôi nhà tọa Tị hướng Hợi, có cách cục sơn thủy đảo nghịch, sát khí đáo tọa. Mặc dù toàn bàn hợp cách Tam ban nhưng gia đạo vẫn kém. Diễn số Phong thủy vận 7 như sau:

Bố cục nội thất nhà như sau:


Xét về bố cục, ngôi nhà này rất bất lợi về sức khỏe, nhân đinh không vượng và quần tụ bởi tọa sơn có sát khí Ngũ hoàng chiếu đến, lại được hỏa khí của bếp tương sinh. Hướng bếp quay về tây nam lại hấp thu sát khí Ngũ hoàng tại đó nên đặc biệt hung hại. 

Quan phản hồi của chủ nhà quả thật gia đình đã gặp nhiều biến cố về nhân đinh. Sức khỏe của người nhà đa phần kém từ khi chuyển đến sống tại đây. Đặc biệt, vợ của chủ nhà đột nhiên phát bệnh về hệ thần kinh, mất trí nhớ.

Hướng nhà dù có tài khí Cửu tử chiếu đến cũng chỉ giúp cho tiền tài ổn định được phần nào chứ không tích tụ và phát mạnh được. Bởi lẽ Vượng khí thất cách do chiếu đến tọa sơn, hơn nữa còn bị uế khí của nhà vệ sinh xung phá. Sinh khí Bát bạch nhập tù cũng không phát huy được. Vì thế nên từ khi chuyển qua sống tại đây lúc nào cũng lo về tài chính, tiền bạc làm ra lại hao tán bởi sức khỏe, mười mấy năm làm ăn không có nổi tiền sơn sửa lại nhà cửa.

Năm Nhâm thìn 2012 sát khí chiếu đến tọa sơn, năm Quý tị 2013 hướng nhà bị Tuế phá, năm Giáp ngọ 2014 sát khí chiếu đến hướng nhà. Vì vậy trong ba năm này gia đạo sa sút trầm trọng, bệnh tật khởi phát, kinh tế khó khăn.

Sau quả nhiên được phản hồi, nói năm 2012 vợ của chủ nhà phát bệnh về thần kinh, trí nhớ rất kém. Năm 2013 và 2014 cũng rất vất vả về tiền bạc, gia đạo suy vi.

Tiếc rằng ngôi nhà này không xem phong thủy trước khi xây, trong khi ở cũng không chú trọng đến nên gia đạo không hưng thịnh. Nếu cục thế này được sử dụng đúng cách thì phúc khí hưng thịnh lâu dài, đâu đến nỗi phải khó khăn như bây giờ.


LƯỢNG THIÊN XÍCH

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...