Chuyển đến nội dung chính

Cách xác định hướng nhà, hướng cửa theo phong thủy


Hiện nay có rất nhiều sách phong thủy và cũng nhiều trường phái có các cách xác định hướng nhà và hướng cửa khác nhau. Điều này làm cho nhiều người thấy khó khăn trong ứng dụng vào thực tiễn của ngôi nhà mình, làm cho nhiều người không biết xác định như thế nào là đúng.

Xác định hướng nhà

Để xác định hướng nhà thì trước hết từ thế đất của nhà phải xác định hướng nước chảy ở phía trước (kể cả nước mặt và nước ngầm). Nếu được hướng nước chảy từ trái sang phải thì rất tốt.
Ngày trước tôi và các bạn thường chỉ để ý đến hướng cửa chính để chọn mua nhà hay nhà chung cư dựa theo 8 hướng Bát-trạch của mệnh quái của chủ nhà chứ không biết gì về hướng nhà. Thật ra theo phái Huyền Không học cũng như Tam Hợp Phái thì hướng nhà và hướng cửa chính không phải là một. Theo ông Bạch Hạc Minh, nhà phong thủy nổi tiếng ở Hương-cảng, thì về cách định hướng trong Phong-Thủy, cần phải lấy hướng nhà làm chính, hướng cửa chỉ để phối hợp mà thôi.
Cách xác định hướng nhà, hướng cửa theo phong thủy
Cách xác định hướng nhà, hướng cửa theo phong thủy
Phong thủy theo phái Bát-trạch thì lấy cửa chính làm hướng nhà. Tuyến vị đối diện là tọa. Tọa ở phương nào thì lấy phương đó làm chuẩn. Thí dụ căn nhà có hướng Ly thì tọa ở phương Khảm, từ đó gọi là Khảm trạch rồi dùng 8 phương Bát-trạch đã xấp đặt cho Khãm trạch mà ứng dụng. Chúng ta sẻ nói rõ về Bát-trạch và các phương của nó trong các chủ đề tiếp theo.
Nhưng theo sách Bát-trạch Minh-kính thì nhà thì phải lấy hướng nhà làm chuẩn. Phương pháp được coi như chính thống nhất là "lấy dương làm hướng" như sau đây: Theo cách kiến trúc thời xưa thì sau cửa lớn lại có một sân lớn, sau sân lớn này là đại sảnh (tương đương với phòng khách hiện đại). Sân lớn này gọi là thiên-tỉnh mà trong phong thủy chúng ta gọi là Minh-đường. Như vậy Minh đường là khoảng đất trống trước nhà. Các nhà phong thủy cho rằng Minh-đường thuộc hư vì hư là trống không thuộc dương (trong khi thực thuộc âm). Như vậy hướng quay về khoảng trống không xung quanh nhà là hướng nhà tức là ý nghỉa lấy dương làm hướng.
Trong cách sấp đặt nhà cửa trong thời đại chúng ta thì minh đường là vùng trống trải quanh nhà như: biển, sông, hoa viên, ao hồ, hồ nước, sân vận động, bải đậu xe... Như vậy hướng nhà quay về các nơi này chính là hướng nhà và phương ngược lại là tọa. Hình như vườn trồng đầy cây lớn không được coi là minh đường vì không phải là vùng trống trải.
Thí dụ trường hợp một căn nhà có mặt trước quay ra đường nhưng mặt sau lại quay ra bờ sông rộng không có gì ngăn ở giữa thì hướng nhà là hướng quay ra bờ sông vì sông là khoảng trống đáng kể nhất mà nhà giáp ranh.
Phong thủy học người ta xác định điểm nước chảy đến (gọi là thủy đầu) và điểm nước chảy đi (gọi là thủy khẩu). Nhằm hai đường tiếp tuyến với thủy đầu và thủy khẩu, ta được giao điểm là điểm tốt nhất để đặt tâm nhà. Ta gọi điểm này là tâm đất, hay huyệt đất.
Việc kẻ các đường tiếp tuyến này nhiều khi phải ngắm bằng mắt, ít khi có bản đồ chuẩn xác để vẽ trên giấy. Đường chỉ hướng nhà được xác định theo bản đồ trạch quẻ để được cung tốt và có thể chuyển dịch song song với nhau, chạy theo phần đường thủy khẩu.
Nghĩa là điểm tâm đất (sau này là tâm nhà) có thể dịch chuyển theo phần đường thủy khẩu để thích hợp với vị trí miếng đất định làm nhà. Miếng đất có được thế trong phong thủy học gọi là miếng đất có tả thanh Long, hữu bạch hổ, hậu huyền vũ, tiền chu tước.
Nhưng đó chỉ là văn vẻ thôi, còn trong dân gian gọi dễ hiểu là miếng đất có phía sau trồng đỗ, phía trước cấy chiêm, hai bên hai tay liềm co lại, nghĩa là đất có phía sau cao, phía trước thấp, hai bên có dải cao bao vòng. Đấy là miếng đất lý tưởng để làm nhà vì nó có thế tụ khí.
Tuy nhiên, cũng không dễ gì xác định được thủy đầu và thủy khẩu như trên, nên cách đơn giản là đặt hướng nhà trông về nơi đất thấp và đón được gói chủ đạo.
Hướng nhà được xác định dựa trên khoảng không có nhiều dương khí nhất như sau:
- Nhà có sân rộng thì mặt có sân là hướng nhà.
- Nhà có một mặt tiền giáp đường, còn ba mặt còn lại không có con đường thì mặt có con đường là hướng nhà.
- Nhà có hai mặt giáp đường, thì ta căn cứ cửa chính nằm ở bên đường nào thì mặt đó là hướng nhà.
Nói tóm lại hướng nhà là hướng có đường thẳng vuông góc với mặt tiền của ngôi nhà. Mặt tiền của ngôi nhà là mặt có cửa chính. Như vậy đây là cách xác định hướng nhà chính xác nhất, đơn giản và áp dụng dễ dàng.
Xác định hướng cửa (cửa chính):
Hướng cửa được xác định là đường nối tâm nhà ra điểm giữa của cửa chính. Trong phong thủy học thì hướng cửa phải nằm được vào cung tốt của trạch quẻ.
Cho nên phải dùng bản đồ trạch quẻ để xác định vị trí của cửa chính trên bản vẽ bố cục mặt bằng nhà. Nếu người thiết kế không quan tâm đến cung sơn hướng của cửa chính thì có thể xác định vị trí cửa chính trên cơ sở đón được hướng gió cần thiết.
Nhiều người nhầm tưởng hướng nhà chính là hướng cửa. Thực ra hướng cửa là hướng có đường thẳng vuông góc với mặt ngang của cửa.
- Hướng cửa có hai trường hợp:
+ Hướng cửa trùng với hướng nhà.
+ Hướng cửa không trùng với hướng nhà.
Như vậy qua định nghĩa và hai trường hợp về hướng nhà và hướng cửa, chúng ta đã hình dung cho mình được chính xác nhất hướng nhà và hướng cửa.
Có một nguyên tắc là: Khí trường phải đi vào cửa chính đến tâm nhà, rồi từ tâm nhà mới phân phát đi các phòng trong nhà.
Nếu khí không vào được đến tâm nhà (do bị tường hoặc các cửa ngăn cản) thì sẽ dẫn đến trường hợp khi đi vào phòng nào đó rồi đi ra theo cửa sổ, còn các phòng khác thì không có khí vào.
Nhà như thế không bao giờ được vượng khí. Nhà không vượng khí thì người sống trong nhà không khỏe mạnh. Cũng giống như người ta thường chọn vị trí thích hợp ở khu vực giữa làng để xây đình làng.
Khi đó, khí tụ về đình rồi mới phân tán đi các ngõ xóm cho đến từng nhà. Không ít nhà bị tình trạng thiết kế không để khí vào đến tâm nhà. Qua kiểm tra, các nhà này đều không vượng khí.
Việc này nhiều khi rất đơn giản: Chỉ phá đi một mảng tường hoặc dỡ bỏ một bộ cánh cửa nào đó để khí không bị cản trên đường đi vào đến tâm nhà.
tuvantuvi.net

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...