Chuyển đến nội dung chính

Góc nhìn Bút Ký Phong Thủy Điền Dã Ký Sự


Nhà tọa Tý hướng Ngọ, 182.5 độ, xây và vào ở năm 1958, vận 5.

Chồng sinh năm 1921 – Tân dậu, Vợ sinh năm 1923 – Quý hợi.


Mảnh đất này tọa lạc tại một vùng quê thuần nông. Người dân ở đây nghèo lắm, quanh năm cấy hái cầy bừa, sống nhờ vào mấy vụ ngô khoai, ăn còn không đủ nói chi tới học hành khoa bảng.

Vào thời điểm giáp hạt, “tháng ba ngày tám” thì thôi rồi, có khi gần cả làng đứt bữa phải ăn cơm độn với ngô khoai thái nhỏ phơi khô, có khi phải ăn trừ bữa, nhà ai có bát cơm trắng là đã khá giả lắm rồi. Những năm 85 trở về trước, nhìn cả làng chỉ thấy vài nóc nhà ngói, phần còn lại đều là nhà tranh vách đất, khá hơn chút thì có nhà trình tường mái rơm, mái rạ. Những ngày mưa bão thì sợ lắm, khi bão về với gió giật cấp 8, cấp 9 là cả làng đã nhốn nháo, nhà nào nhà nấy tất bật chèn chắn nhà cửa phòng bão, nếu mà gió giật cấp 12 thì đa phần nhà tốc mái, không thì cũng dột nát tả tơi. Ấy vậy mà vẫn có một gia đình chỉ với hai vợ chồng làm ruộng mà nuôi được 5 người con học hành. Con cái nổi tiếng hiếu học một vùng. Ba người con trai học hết đại học, hai người con gái học trung cấp. Nhà không giàu có nhưng vẫn cơm no áo ấm. Cụ ông sống thọ gần 90 tuổi, cụ mới mất cách đây vài năm, cụ bà mất trước nhưng cũng thọ 83 tuổi.

Năm 1958, vào khoảng trưa mùa hè, khi gia đình đang chuẩn bị vật liệu để xây nhà, bỗng dưng có một ông Lão trạc tuổi lục tuần, mặc bộ nâu sòng, quần sắn móng lợn, đi chân đất, tay cầm chiếc gậy tre ngà vào xin bát nước, uống cho thỏa cơn khát sau nhiều tiếng bộ hành. Nhìn cụ quắc thước lắm. Mắt sáng tinh anh, giọng nói rất từ tốn và trầm ấm, da dẻ tuy dám nắng nhưng rất “giòn” chứng tỏ là người luôn lội ruộng, thăm đồng. Chủ nhà thấy ông Lão vào chơi vốn lại có tính hiếu khách nên đon đả mời nước và ngồi cùng hầu chuyện.

Ông Lão nhâm nhi bát nước chà xanh, miệng tấm tắc khen ngon. Trong khi ngồi nói chuyện với gia chủ, cặp mắt ông Lão vẫn không quên đảo quanh khu đất, dường như đang toan tính một điều gì đó. Đột nhiên ông Lão đứng phắt dậy, từ từ đi vòng vòng quanh khu đất một lượt rồi quay lại chiếc chõng tre đặt cạnh gốc mít già, nơi có chiếc tay nải mang đi đường. Ông Lão mở nải ra, lấy chiếc La kinh cũ kỹ, mặt la kinh bóng loáng, có thể soi gương được. Lão tiến lại một điểm trong khu đất rồi đưa la kinh lên, từ từ xoay mặt La kinh, ngắm nghía bốn phương tám hướng, khuôn mặt rất suy tư. Sau một hồi xem xét, Lão lấy một chiếc gậy tre to độ bằng ngón tay cái, dài khoảng 50 cm, cẩn thận cắm xuống đất. Lúc này gia chủ vẫn không hiểu điều gì đang diễn ra thì ông Lão nói, đây là tâm nhà, tôi cắm cho anh chị, nhà có phúc lắm, rồi Lão hướng về phía trước dặn gia chủ: tâm đặt đây, hướng thế này thế này,… cùng lúc Lão đưa tay chỉ về phía trước nơi sau này là hướng nhà ngó về đó. Gia chủ rất vui mừng cảm tạ ông Lão. Ông Lão nở nụ cười hiền hậu, từ biệt gia chủ rồi ra đi...

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...