Chuyển đến nội dung chính

Góc nhìn Phong Thủy Thuật Cầu Đảo



Thuật cầu đảo, cầu cho quốc thái dân an hoặc cầu mưa cho đất nước, cho một vùng thời xưa chẳng phải là hiếm. Nhưng người chủ lễ là Vua làm cho toàn dân, là Quan làm cho một vùng mình cai quản. Phép cầu đảo là phải chọn ngày lành, giờ tốt, lập đàn cúng tế linh đình, cái này phải theo nghi thức đàng hoàng. Nếu không phải là Vua, thì người chủ tế, người đứng ra làm lễ cầu đảo phải là người có đức độ, được nhân dân kính trọng, đâu phải ai cũng làm được, mà cũng đâu phải ai cũng “trèo được lên cái đàn tế” ấy. Trong truyện Tây du ký ta có thấy một đoạn nói về cầu mưa. Thầy trò Đường tăng đi lấy kinh gặp nơi khô hạn, dân tình đói rét, gặp quan phủ thì quan bảo đã làm hết cách rồi, cầu hết rồi mà chẳng có mưa. Tôn Ngộ Không sau đã biết là do ông quan này làm việc sai trái, nên bị trời trách phạt (đại loại thế), do đó ông ta có cầu cũng không ứng. Trong Thái Ất hình như cũng có nói rằng “Vận xấu thì cầu đảo tất qua”.


Ảnh minh họa: Thiên Phù

Thực chất của việc cầu đảo là dùng năng lượng ý chí, năng lượng tinh thần của người “Đức độ”, kết hợp với năng lượng ý chí toàn dân, giống như (hò dô ta kéo pháo) ấy, một người liệu làm có đặng? phải có hợp sức thì mới mạnh, mới cảm ứng, mới thông được tới “Thần minh”, “có cầu tất ứng”, hay “sở cầu tất ứng, sở nguyện tất thông” là thế. Vẽ vời mấy thứ, lễ lạt linh đình, cốt là cái mồi để dẫn dắt ý chí hướng tới một mục đích, năng lượng hướng về một việc mà sức mạnh được nêng lên. Như trong truyện huyền bí ở Tây tạng, các sư ngồi niệm chú mà đá bay từ dưới đất lên hang động trên cao (Cái này mình nghe thôi, chưa biết thực hư).  Thuật cầu đảo là dùng sức mạnh ý chí, tinh thần. Như kinh sách có nói: “Thiên động thì nhân ứng, nhân động thì thiên ứng, địa động thì thiên liền ứng theo”. Đó là nói rằng nếu có một cái động, tất thiên địa nhân ứng hòa theo. Bởi vậy xưa kia nhìn thiên tượng mà biết có biến, nhìn nhân vật mà biết họa phúc, …

Ảnh minh họa

Sách có chép rằng: “Luận về việc cầu mưa làm sao cho đúng phép, thời trước hết phải làm sao cho lòng mình được thẳng thắn, lòng có thẳng thắn mới hợp với lòng trời. Sau đó phải làm cho cái khí của mình được thuận, mới có thể hòa đồng với cái khí của trời đất. Vì thế trong lời tiểu thú của sách trung dung có nói: Lòng của ta chính thời lòng của trời đất cũng chính, khí của ta thuận thời khí của trời đất cũng thuận. Người đời gặp nghịch cảnh, ý muốn thay trời hành đạo, phò tá mọi người mọi vật. Muốn như vậy, trước hết phải làm cho lòng mình đoan chính, và trong lúc bình sinh không bao giờ làm điều sai quấy. Hết thảy mọi việc phải đúng theo thiên lý, nhân tâm, lấy nhân đức mà chứa âm công. Dù có gặp được sự lợi ích ngoài ý muốn cũng không nên tham lam vơ vét cho mình. Giữ được cái tâm chính thuận như thế mới có thể gọi là chính nhân. Đã là chính nhân, thời nói ra một lời là trời đất tin, làm một cử động là quỷ thần sợ, dẫu có tà ma yêu quái, nghe thấy tiếng của ta là sợ hãi thu mình rút thể, thấy mặt ta là rút xương tróc da. Được như thế, thời đối với việc cầu mưa tất nhiên là phải cảm ứng”.


VẬY ĐẤY, ĐỦ THẤY CẦU ĐẢO ĐÂU PHẢI DỄ DÀNG GÌ, ĐÂU PHẢI AI CŨNG LÀM ĐƯỢC, MÀ CŨNG ĐÂU PHẢI KHÓ KHĂN.

FB: Tuan Duong LaiDo
Ghi chép này phỏng theo ''Tang thương ngẫu lục'' nên cũng có thể gọi là ''Tang thương ngẫu lục vậy''.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...