Chuyển đến nội dung chính

Phong thủy ký sự Chùa Hương và cố Tam Sư Phụ Lý Trần Địa


Phong thủy ký sự: Chùa Hương và cố Tam Sư Phụ Lý Trần Địa


Năm 1991 là năm đầu tiên Tam Sư Phụ đã Bắc tiến lên chùa Hương, khi ấy phong cảnh cụm chùa rất cô tịch ít thập phương bá tánh đến viếng chùa. Khi Tam Sư Phụ lấy La Kinh ra xem hướng nhà thờ Tổ rồi đi xem xét phương vị cổng chùa thì phạm Địa Chi Huỳnh Tuyền. Lúc ý, cố hòa thượng Thích Viên Thành đang trụ trì chùa, nghe Tam Sư Phụ nói : cổng chùa lập sai hướng thì sự hoàng pháp sẽ bị chiết giảm. Thế là Tam Sư Phụ đề nghị với Hòa Thượng Thích Viên Thành nên dời cổng và lập thêm cổng mới theo pháp Ngũ Quỉ Vận Tài Lai.
Khi Tam Sư Phụ đi đến phương vị để chuẩn bị lập cổng mới thì gặp phải 2 ông Linh Xà thân hình hai ông to hơn gấp đôi bắp vế con người, khi lại gần thì 2 ông Linh Xà vươn đầu phì phì rồi lặng lẽ bò đi nơi khác, quả nhiên 2 ông chọn nơi có sinh khí để tu luyện nghe kinh kệ của PHẬT môn. Tam Sư Phụ lại đi sang vị trí cổng khác, khi đi gần đến nơi lập cổng mới thì lại có ông Linh Xà khác nằm cản đường không cho Tam Sư Phụ đi qua, Tam Sư Phụ bước chậm lại và thầm nghĩ trong đầu : ông tu luyện ở đây lâu rồi, giờ cần Hoàng Dương Phật Pháp nên tôi mời ông đi kiếm nơi khác mà tu hành. Tam Sư Phụ vừa dùng ý nói xong thì ông Linh Xà bò đi ngay.



Tam Sư Phụ tâm sự : lúc đó chú cũng run run, cơ nhỡ mà ông ý quay sang tấn công thì có mà chết.
Tam Sư Phụ rất khiêm cung, không cho bọn tôi gọi bằng sư phụ mà chỉ gọi là chú.
Sau khi hòa thượng Thích Viên Thành xây sửa lại các cổng mới theo pháp Ngũ Quỉ Vận Tài Lai thì bá tánh thập phương lên viếng chùa ngày một đông lên.
Hòa Thượng Thích Viên Thành lấy ứng nghiệm nhanh quá nên tôn cho Tam Sư Phụ tôi biệt hiệu : Cát Tiên Sinh và kết bái huynh đệ với Tam Sư Phụ.
Thời gian sau Hòa Thượng Thích Viên Thành bái Tam Sư Phụ làm THẦY để được học Phong Thủy Truyền Thừa Tả Ao, vào thời điểm làm lễ bái sư nhập môn phong thủy còn có Thượng Tọa Thích Minh Trí, Thượng Tọa Thích Minh Đức cũng bái sư nhập môn.
Theo phả hệ của chân phái : ở ngoài Bắc thì Tam Sư Phụ chỉ chính thức truyền dạy cho ba vị Thiền môn trên. Còn học trò học cơ bản Địa Lý thì rất nhiều nhưng chân truyền đệ tử thì chỉ có ba vị Thiền môn mà thôi.
Tôi nhập học sau nên gọi ba vị ấy là sư huynh, còn Đại Sư Huynh thì ở miền Nam nay đã qui ẩn điền viên.
Ghi lại theo lời kể của Tam Sư Mẫu, nói đến đây tự nhiên tôi nhớ nụ cười mỉm chi của Tam Sư Phụ, dáng người cao cao gầy gầy đội chiếc mũ bê rê đã dìu dắt tôi đi từng bước một trong học thuật Phong Thủy Truyền Thừa Tả Ao... TAM SƯ PHỤ ơi ... con nhớ TAM SƯ PHỤ ... viết đến đây tự nhiên hai hàng nước mắt tôi chảy dài ...con vẫn nhớ lời Tam Sư Phụ dạy : nếu con không lập ra được pháp phong thủy mới thì con không phải là đệ tử truyền thừa của ta, nay con đã lập ra pháp phong thủy mới rồi mà Tam Sư Phụ đâu còn ở thế gian này để trình pháp với Tam Sư Phụ...!!!!!

Theo Phong Thủy Tả Ao truyền thừa Phong Thủy Thuật Số

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...