Chuyển đến nội dung chính

Tứ Hóa Phái: Phân tích trường hợp cung Tài bạch có sao Hóa khoa


Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Hóa Khoa [năm sinh] ở cung tài bạch như sau:
(1) Hóa Khoa có tác dụng "hợp lí hóa", "trật tự hóa"; vì vậy trường hợp cung tài bạch có Hóa Khoa là chủ về mệnh tạo rất chú ý lời nói cử chỉ của mình, và mong muốn hành vi biểu hiện của mình ở các phương diện đều tuân thủ quy củ. Vì Hóa Khoa còn tượng trưng cho văn minh, nên lúc bình thường mệnh tạo sẽ kiềm chế tâm trạng của mình, muốn biểu hiện phong độ của một người có tu dưỡng, có danh dự.
(2) Hóa Khoa còn tượng trưng cho học thức, tri thức; trường hợp Hóa Khoa ở cung tài bạch, là biểu hiện năng lực học tập, giỏi vận dụng tố chất chuyên nghiệp của mình để mưu sinh, tức có sở học tinh chuyên, và học để vận dụng, mệnh tạo có trình độ cao hơn người khác trong môi trường làm việc.
(3) Ngoại trừ có sở học tinh chuyên, Hóa Khoa còn chủ về có danh tiếng, danh vọng; cho nên trường hợp Hóa Khoa nhập cung tài bạch, có lúc dựa vào tố chất chuyên nghiệp mà tạo nên danh tiếng để kiếm tiền. Hơn nữa, vì lực tác động của Hóa Khoa có tính liên tục, từ từ; cho nên sau khi trải qua một thời gian dài nỗ lực thường thường họ gây dựng được danh tiếng.
(4) Hóa Khoa có lực tác động "bảo vệ", vì vậy hàm nghĩa mở rộng của trường hợp Hóa Khoa ở cung tài bạch là bảo đảm "quyền làm việc" và "con đường kiếm tiền". Nói một cách khác, người có Hóa Khoa ở cung tài bạch ít khi bị thất nghiệp, hoặc ít khi rơi vào tình huống không tìm được việc làm; tức lúc mất việc họ sẽ mau chóng tìm được công việc mới.
(5) Nhưng xét ở góc độ khác, lực tác động của Hóa Khoa là tuân thủ quy củ, thậm chí hơi bảo thủ những gì của mình; vì vậy trong môi trường làm việc, mệnh tạo có tính ổn định cao độ, thiêu chủ động, nên cũng rất ít khi chủ động thay đổi cóng việc.
(6) Một ý nghĩa khác của Hóa Khoa là trợ lực của quý nhân. Trường hợp Hóa Khoa xuất hiện ở cung tài bạch, là chủ về có quý nhân giúp đỡ trong lúc tìm việc làm, duy trì mối ràng buộc trong công việc. Một ý nghĩa khác thâm sâu hơn, quý nhân chính là bản thân mệnh tạo. Vì mệnh tạo quá tuân thù chế độ trong môi trường làm việc, khiến người ta có cảm giác họ hơi câu nệ nguyên tắc; nhưng lúc làm việc họ luôn có thái độ nghiêm túc, có tinh thần trách nhiệm, rất tận tâm với chức trách của mình, thường thường chính thái độ này mới là "quý nhân bảo đảm có việc làm".
(7) Vì sức ảnh hưởng của Hóa Khoa, người này thấu hiếu nhân tình thế thái, tiến thoái ứng đối hợp cách, cũng không kết bè kết phái để mưu lợi riêng tư, nên trông họ giống như đơn độc. Phần lớn họ là người không bao giờ bẻ cong phép tắc, không tiêu xài tiền loạn xạ, cũng không đầu cơ, không mạo hiếm, càng không tham ô.
(8) Trường hợp Hóa Khoa ở cung tài bạch, nếu các sao ở cung quan lộc không mạnh, Hóa Khoa lúc này có thể là chú trọng bề ngoài; nhất là trường hợp có các sao Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc đồng cung với sao Hóa Khoa, phần nhiều sẽ có thái độ "minh triết bào thân".
(9) Đổi góc độ khác để xem xét, có thể nói kiến lập Hóa Khoa ở cung tài bạch, do đó người này có được cảm giác vinh dự và cảm giác thành tựu là đều nhờ cung cách làm việc của mình.
(10) Hóa Khoa là "che chở", thêm vào các tình huống đã thuật ở trên, phần nhiều mệnh tạo thích hợp với nghề văn, nghề dạy học, hoặc làm việc trong cơ cấu thuộc loại lớn, tức là công việc có tính ổn định cao.
(11) Cung tài bạch là đại biểu cho hình ảnh mệnh tạo trong lòng của người phối ngẫu; cho nên, người cung tài bạch thấy Hóa Khoa thường thường được người phối ngẫu tín nhiệm, kính trọng.
(Trung Châu Tử Vi - Tứ Hóa Phái- Nguyễn Anh Vũ Dịch, tập 1)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...