Chuyển đến nội dung chính

Tứ Hóa Phái: Phân tích trường hợp cung Phúc đức có sao Hóa quyền

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Hóa Quyền [năm sinh] ở cung phúc đức như sau:
(1) Cung phúc đức có thể xem là cung vị chủ về hứng thú, thị hiếu, còn Hóa Quyền là có hàm ý biến động mau lẹ, không cố định; trường hợp Hóa Quyền ở cung phúc đức, mệnh tạo sẽ có nhiều hứng thú và thị hiếu, tính hay thay đổi, ưa thích thời thượng.
(2) Trước đã đề cập, bản thân cung phúc đức là cung vị chủ về EQ và thực hiện chức trách của ý thức; từ đó có thể quan sát mức độ bình ổn của nội tâm, cũng có thể xem trạng thái tâm lí của bản thân trong việc tu dưỡng, xử thế; trường hợp có Hóa Quyền, vì Hóa Quyền có ý tượng "tất bật, miệt mài" và "không ổn định", nên mệnh tạo thường là người lao tâm lao lực, lúc xử lí các sự cố phức tạp, đối diện với thị phi, sẽ có hành vi hấp tấp vội vàng, không yên, hơn nữa, nội tâm dễ cảm thấy phiền muộn, lo lắng.
(3) Vì có Hóa Quyền, nên về trạng thái tâm lí, dễ cố chấp ý kiến của mình để vạch ra hướng tiến hành một sự kiện, do đó thường thường làm cho người ta có ấn tượng họ là người tự phụ, bướng bỉnh, rất chủ quan; hơn nữa, đối với mọi việc, mệnh tạo có ý thức thao túng rất mạnh.
(4) Cung phúc đức còn là cung vị khí số của hôn nhân, trường hợp cung phúc đức có Hóa Quyền thường thường tuy quan hệ hôn nhân thành lập rất mau lẹ, nhưng lại vì Hóa Quyền chủ về "lực ép buộc", nên sau khi kết hôn quan hệ của hai người sẽ dễ trở nên căng thẳng, sống với nhau cũng thường biến thành nỗi sợ hãi, thiếu hạnh phúc.
(5) Vì Hóa Quyền xuất hiện tại cung phúc đức của mệnh tạo, do tác dụng của Hóa Quyền mà mệnh tạo có thể đi tìm người ở bên ngoài, thường sẽ khiến cho hôn nhân của hai người biến thành quan hệ tay ba. Hơn nữa, vì Hóa Quyền có hàm ý thay đổi, biến động, nên sự kiện vừa kể thường thường là do hành vi và ý chí của mệnh tạo dẫn đến kết quả như vậy, chứ không phải do người khác gây ra.
(6) Có thể nói cung phúc đức là trọng điểm quyết định quan hệ hôn nhân có thành lập hay không, trường hợp có Hóa Quyền, thêm vào đó, các sao ở cung phu thê khá phức tạp, còn bị hành hạn khơi động, hoặc thấy tứ hóa ùn ùn xuất hiện, thì người này rất dễ có tử hai lần hôn nhân trò lên; hơn nữa, sẽ dễ vì tác dụng của vận hạn mà có hai lần hôn nhân trong thời gian đó.
(7) Tiếp theo điều (1) và (5), vì mệnh tạo thích hưởng thụ, giải trí theo kiểu tốc hành, thêm vào đó là quan hệ vợ chồng khá bất ổn, nếu cung mệnh có các sao đào hoa, hoặc tổ hợp sao ở cung tử nữ khá phức tạp, thông thường sẽ có hiện tượng phong lưu, chuyện tình qua đêm. Và do điều (2) dẫn đến, mệnh tạo sẽ dùng hành vi này để giải tỏa áp lực tâm lí.
(8) Cung phúc đức còn là cung vị thiên di của cung tài bạch, là nơi nội bộ chuẩn bị, trước khi bày ra tác nghiệp, cũng là cung vị động tâm khởi niệm; trường hợp có Hóa Quyền, trước khi biểu hiện bằng lời nói và hành động, mệnh tạo sẽ suy nghĩ đi suy nghĩ lại nhiều lần, cũng muốn sẽ đạt tới tận thiện, tận mĩ. Do đó, người như vậy thích hợp làm các công việc như lặp kế hoạch, thư kí, tham mưu, phụ tá, cố vấn. Lại vì có Hóa Quyền, nên có hàm ý biến hóa đa đoan, nếu sao hóa thuộc loại có tính khai sáng thì mệnh tạo cũng khá thích hợp theo đuổi những loại sự nghiệp có thể phát huy sở trường giàu sáng kiến của mình.
(9) Nhưng cung phúc đức có Hóa Quyền, tuy ảnh hưởng đến cung tài bạch, nhưng tác dụng của nó chỉ khiến dục vọng kiếm tiền của mệnh tạo mạnh lên, tư duy nhạy bén hơn, mà không chủ về kiếm tiền thuận lợi, liên quan đến vấn đề này cần phải xem xét các sao và tình huống phi hóa ở cung tài bạch. Hơn nữa, vì cung phúc đức có Hóa Quyền, nên trạng thái tâm lí lúc kiếm tiền phần nhiều là phiền muộn, lo lắng bất an.
(10) Cung phúc đức là cung vị giao dịch (cung vị biểu hiện) của cung thiên di, vì vậy trong môi trường làm việc mệnh tạo cùng dễ có "dịch động", thường được cử đi xa, mà phần nhiều lúc cứ đi xa là đàm đương nhiệm vụ quan trọng. Vì "dịch động" sẽ kích thích mệnh tạo phải biểu hiện và đòi hỏi cao ở bản thân, do đó thường thường ở bên ngoài sẽ có biểu hiện tốt hơn người bình thường.
(Trung Châu Tử Vi - Tứ Hóa Phái- Nguyễn Anh Vũ Dịch, tập 1)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...