Chuyển đến nội dung chính

Tứ Hóa Phái: Phân tích trường hợp cung Phu thê có sao Hóa kỵ

Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Hóa Kị [năm sinh] ở cung phu thê như sau:
(1) Mọi tạo tác của Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa trong toàn mệnh bàn đều do Hóa Kị gánh chịu; trường hợp Hóa Kị ở cung phu thê, là có ý trông đợi người phối ngẫu gánh vác trách nhiệm thay cho mệnh tạo. Luận ở góc độ người phối ngẫu, là phải chịu đựng quá nặng, còn đối với mệnh tạo thì cũng sẽ vì quá kì vọng mà cảm thấy rất hụt hẫng, có thể từ yêu thương biến thành oán hận.
(2) Trường hợp có Hóa Kị đóng trong cung phu thê, tất nhiên sẽ có người đối ứng, tức trong đời mệnh tạo nhất định sẽ có kết hôn, hoặc có một giai đoạn trong cuộc sống sẽ tương tự như quan hệ hôn nhân. Nhưng vì lực tác động của Hóa Kị là thuộc loại phức tạp, cần phải chỉnh lí; nếu mệnh tạo kết hôn sớm hoặc yêu đương quá sớm thì tâm lí chưa được chín chắn, dễ chia tay hoặc sẽ có biến động trong hôn nhân (cần phải trải qua sự điều chỉnh về trạng thái tâm lí); đây cũng là ngầm báo kết hôn muộn thì tốt hơn.
(3) Như đã thuật ở trước các cung lục thân đều có ý nghĩa so sánh với mệnh tạo, trường hợp cung phu thê có Hóa Kị, luận về vai trò của người phối ngẫu, người phối ngẫu sẽ hướng nội, trầm mặc, hay đa nghi hơn mệnh tạo; nhưng không có nghĩa là người phối ngẫu vốn như vậy, mà đây là mệnh tạo cảm thấy như vậy.
(4) Luận về vai trò của người phối ngẫu trong kịch bản cuộc đời của mệnh tạo, sau khi hôn nhân thành lập sẽ khiến người phối ngẫu bắt buộc phải đóng vai một người hướng nội, trầm mặc, đa nghi hay đố kị; nhưng muốn phù hợp với vai của mình trong kịch bản, thì người phối ngẫu sẽ khó cảm thấy hạnh phúc; trường hợp nghiêm trọng hơn là, cuộc sống hôn nhân là buồn khổ, khó chịu đựng.
(5) Lực tác động của Hóa Kị có tính chiếm hữu, khó hiếu và bất minh. Dưới ảnh hưởng của Hóa Kị, cách biểu đạt tình yêu của mệnh tạo sẽ rất dở. Ví dụ như mệnh tạo nhầm lẫn rằng "đánh là tình, mắng là yêu" mà "đánh thật" "mắng thật"; ngoài ra, mệnh tạo còn không yên tâm về người phối ngẫu, hay ghen tuông. Nhưng nếu so sánh, thì người phối ngẫu cũng khó có tình ý với người khác, mà e rằng họ còn ghen tuông hơn mệnh tạo.
(6) Ý tượng của Hóa Kị không chỉ là "gánh vác", mà còn có hàm ý "hấp thu", "thiếu". Trường hợp có Hóa Kị ở cung phu thê, đối với mệnh tạo, hôn nhân cũng giống như cái hố sâu chứa đầy bất mãn, khó có đối tượng nào làm cho mệnh tạo vừa ý, thỏa mãn hoàn toàn; do đó cuộc sống hôn nhân thường thấy đầy ai oán tình sầu. Cùng vì khó vừa ý, thỏa mãn, nếu ở cung phúc đức có sao đào hoa thì sẽ dễ thấy mệnh tạo tìm cơ hội khác.
(7) Tiếp theo trên, nhưng Hóa Kị ở cung phu thê không nhất định sẽ li hôn, vì Hóa Kị còn có ý tượng "rối rắm", "làm phiền". Lúc tính của sao Hóa Kị không có tính chất "lập tức", "quả đoán", thì giữa hai người sẽ tương tự như tình trạng "mắc nợ nhau"; thường thường là muốn đứt đoạn mà không đứt đoạn, oán nhau nhưng lại không cách nào rời xa nhau. Muốn biết có li hôn hay không, thì phải xem cung phúc đức và cung thiên di.
(8) Do cung phu thê cùng có ý so sánh, trường hợp Hóa Kị ở cung phu thê, thường thường chủ về gia thế hoặc gia cảnh của người phối ngẫu không được tốt cho lắm, phần nhiều gia thế hay gia cảnh của mệnh tạo tốt hơn người phối ngẫu. Đại đa số trường hợp, người phối ngẫu phải gánh vác kinh tế gia đình cha mẹ mình. Ngoài ra, trường hợp Hóa Kị ở cung phu thê, là người phối ngẫu ở cung vị huynh đệ của cung phụ mẫu, thông thường cũng chủ về lúc kết hôn, một người trong song thân của người phối ngẫu rất có thể đã qua đòi.
(9) Trường hợp Hóa Kị ở cung phu thê, là ở "tha cung", sẽ xung kích cung quan lộc, là "ngã cung". Nếu còn ở trong thời kì đi học, thì chuyện bạn bè trai gái sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến ý nguyện học tập của bản thân mệnh tạo, cũng ảnh hưởng đến thành tích học tập và sự thành tựu về học vấn. Hơn nữa, cung quan lộc còn chủ về lành vực tinh thần, một khi bị xung kích, sẽ ảnh hưởng đến trạng thái tâm lí của mệnh tạo, làm cho tâm tình phiên muộn, khiến phẩm chất của cuộc sống kém đi.
(10) Ngoài ra, vì cung quan lộc là cung vị đại biểu cho bản lãnh và địa vị xã hội của bản thân mệnh tạo, cung phu thê có Hóa Kị, là chủ về sau khi kết hôn, sẽ có ảnh hưởng xấu đối với sự nghiệp của mệnh tạo, mệnh tạo cần phai trải qua một lần chịu ảnh hưởng xấu, mới có thể tìm ra hướng đi mới. Hơn nữa, có thể sau khi kết hôn mệnh tạo sẽ thành người làm chủ cả một gia đình.
(11) Nếu bản thân mệnh tạo không sáng suốt, hoặc tâm lí chưa được trưởng thành, cung phu thê có Hóa Kị sẽ khiến mệnh tạo có khuynh hướng muốn người phối ngẫu chịu đựng các mối họa ập đến, cũng có thể mệnh tạo sẽ mang mọi điều không như ý ở bên ngoài trút lên người phối ngẫu, khiến cho cuộc sống hôn nhân mất đi hương vị ngọt ngào của nó.
(12) Cung phu thê là cung vị giao dịch của cung phúc đức, trường hợp Hóa Kị ở cung phu thê, là chủ về bình thường mệnh tạo có những thị hiếu, hứng thú không được lành mạnh, rất có thể sẽ lãng phí quá nhiều thời gian (như suốt đêm không ngủ để vui chơi), hoặc tiêu xài quá nhiều tiền bạc, có lúc không có thời gian để nghi ngơi. Dễ bị tình trạng vui chơi thái quá mà mất hết ý chí phấn đấu.
(Trung Châu Tử Vi - Tứ Hóa Phái- Nguyễn Anh Vũ Dịch, tập 1)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...