Chuyển đến nội dung chính

Tử vi đẩu số thế nào là cường cung?


Bản Mệnh và cung An mệnh, thế nào là cường cung?
Như bài trước đã nói mỗi lá số Tử vi được chia làm 12 cung và mỗi cung lại vừa là Âm hoặc Dương thuộc một trong 5 hành Kim, Mộc, thủy, Hỏa và Thổ. Mỗi cung lại còn chia ra là CƯỜNG, NHƯỢC khác nhau, tùy theo lần này là PHƯƠNG HƯỚNG chứ không như ở đoạn I. Tùy theo lé Chính danh Chính vị. Lại cách chia"cường nhược"này cũng không dựa vào sự quan trọng về ý nghĩa của mỗi cung như ngôn ngữ thôngg thường vẫn nói là"về phụ nữ, cung mệnh cung Phúc đức, cung Phu và cung Tử được coi là CƯỜNG CUNG, tức là cung quan trọng mà về nam giới nhiều nhà nghiên cứu lại chủ trương rằng cung Nô bộc là quan trọng nhất, sau cung Mệnh Thân và Quan lộc.
Nay nếu theo phương hướng thì trên lá số Tử vi cung ngọ và cung Tý được gọi là cường cung với ảnh hưởng như sau:
- Mệnh đóng tại đó đã tốt nếu có các sao đắc địa càng tốt hơn thêm nếu có xấu thì cũng bớt xấu. Nhưng câu phú dạy:"Mệnh tọa cường cung tu sat chế, hóa chi lý". Tức là dù mệnh có đóng tại cung Tý hay Ngọ chẳng hạn, ta cũng phải xét xem sao Chính diệu tọa thủ ở đó chế hoa (thay đổi thêm bớt) thế nào so với cung an Mệnh. Tức là phải xét hai vấn đề.
- Thứ nhất là xem ảnh hưởng 20 sao Chính diệu ra sao đối với hai Cường Cung Tý và Ngọ?
Tỉ như sao Chính diệu là sao Tử vi: sao này ở Ngọ thì thật là tốt rồi, vì cung Ngọ thuộc Hỏa, sanh ra Thổ là hành mà Chính diệu Tử vi. Nhưng nếu sao Tử vi mà đóng tại cung Tý thì tuy là cường cung nhưng vì cung Tý là cung Thủy, mà Thủy khắc Thổ của Tử vi nên cái tốt giảm đi nhiều lắm.
- Xin độc giả thử đoán xem người nữ nhân tuổi Giáp Tý, sanh tháng 6 ngày 23 giờ Mùi, có sao Tử vi cư Tiys tốt đến thé nào vì bà ta Mệnh thuộc hành Kim mà Kim Thủy tương sanh) và xấu ra sao?
Sau khi trình bày các sách cổ đều dùng chữ Cường Cung để nơi hai cung TÝ Ngọ chưa thấy sách gọi hai cung Mão Dậu là"Nhược cung"mà chỉ nơi tới cung Thìn Tuất Sửu Mùi là Trung ương, thuộc hành Thổ, có khi tốt cũng có khi xấu, và 4 cung Dần Than Tị Hợi thì có khi gọi là Tứ sịnh có khi gọi là Tứ tuyệt. Tôi thú thật là không biết gọi thế là theo địa bàn Tiên Thiên bát Quái hay là theo vòng Tràng sinh?
- Khi có Tràng sinh đóng thì gọi là Tứ sinh khi có Tuyệt đóng thì gọi là Tứ Tuyệt.
Kết quả là có khi cho là tốt, nếu mệnh đóng ở đó có khi cho là xấu. Còn Mão Dậu hai cung này thật là tội, sao Thiên Tướng chỉ ham địa chờ đóng ở cung Dậu mà đắc địa hay (hay Bình hòa) khi đóng ở cung Mão, và nhiều sách, có sách này bảo là đắc địa sách kia nói là hãm địa, khi một chính diệu đóng tại hai cung đó.
Vì nhiều sự mơ hồ như thế nên đôi khi người nghiên cứu không còn chú trọng đến Miếu Vượng Hãm nữa mà chỉ đoán số theo toàn thể các sao.
Tôi nói thế vì học giả Phạm Quỳnh tuy có sao Thái Dương cư Hợi thủ Mệnh (hãm địa) mà văn hay chữ tốt, một bước Thượng Thư rồi.
- Đinhh chung gần gũi cái ngai vàng xem thế chẳng cần có Nhật Nguyệt tịnh minh như Khổng minh mà học giả Phạm Quỳnh cũng"Tả cửu trùng ư Nguyệt diệu"
Và cũng vì thế mà tôi có ý kiến là sở dĩ cung Thìn, Tuất, Sửu Mùi được coi là tốt là"Cường"vì ngoài việc tuổi Thìn mà mệnh đóng tại la Võng thì xấu, tôi thấy Mệnh đóng tại Thìn Tuất Sửu Mùi tốt sẵn vì hay được giáp Tả Hữu Khôi Việt hoặc có Âm Dương Tả hữu đồng cung. Mẹo Dậu xấu vì hay bị Kình Dương hãm ở đó nếu tuổi Giáp tuỏi Canh hay và Mệnh tại Dần Thân Tị Hợi hay bị Đại Tiểu hao và Kiếp sát đóng nên xấu. Xấu rồi nhiều thì cũng tốt, nếu là tuổi Giáp Mậu, Bính, Canh !
Lại nữa hay cung Tỵ Hợi xem ra là hai cung"nhược"nhất trong 12 cung, trong lá số, vì thường là nơi"trú ngụ"của tú tinh là Liêm trinh và dâm tinh là Tham Lang và Phá Quân.
Nhưng ở đây Trần Đoàn đã có nghĩ ra cái"chế hóa"để làm giảm bớt cái không hay của hai sao Liêm Tham chẳng hạn.
TRƯỜNG HỢP CHẾ HÓA:
Trái với trường hợp chính tinh miếu địa và đắc địa đôi khi chính tinh lại đóng tại các cung xấu gọi là hãm địa, như khi Liêm trinh Tham lang đóng ở Tị Hợi,
"Liêm, Tham, Tị, Hợi hình ngục nan đào"hai chính tinh này đóng ở Tị Hợi thì khó mà tránh được phải tù tội"
Tuy nhiên nhờ luật Ngũ hành sinh khắc và chế hóa, sự ngục tù có thể tránh được nếu.
a/ Tham Liêm đóng tại Hợi mà bản Mệnh thuộc hành KIM THÌ TỐT, với điều kiện có Hóa Kỵ cùng đóng tại cung an Mệnh: Hóa Kỵ là Thủy khắc Liêm là Hỏa nhưng tuổi Kim đong ở cung Thủy là tốt được sự sinh.
b/ Tham Liêm đóng tại cung Tị mà bản Mệnh thuộc hành Hỏa ngộ Hóa kỵ lại tốt vì tuy Hóa Kỵ (thủy) khắc Liêm (Hỏa) nhưng Mệnh đóng ở cung Hỏa không sao có chế hóa.
(Với hai trường hợp này lại thấy Mệnh đóng ở sinh địa là quan trọng nhất)
Tôi xin thưa thật rằng tôi đã chép lại 2 trường hợp này trong quyển Tự điển Tử vi của tác giả Đắc Lộc do nhà xuất bản Phúc Thắng xuất bản tại Hanoi vào năm 1952.
Tôi chỉ gặp trường hợp:
- Bính Thân tháng 2 ngày 18 giờ Thìn (dương nam) với Tham Liêm ở Hợi mà mệnh Hỏa, ngộ Hóa Kỵ.
- Quý Dậu, tháng 4 ngày 12 giờ ngọ (nữ)
Tôi xin quý vị đương nghiên cứu học hỏi về khoa Tử vi thử đóan xem hai lá số trên đây ra sao. Thực tập như thế, quý vị sẽ tiến bộ trông thấy và sẽ rất lấy làm vui mừng được biết khả năng của quý vị khi tôi nói rõ đó là số của ai.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...