Chuyển đến nội dung chính

Tử vi đẩu số nhận định về Tuần Triệt


Tử vi có bốn sao Không, sách vở đều gọi chung là các sao Không vong. Không phân biệt giữa chúng với nhau và cũng thấy được sự khác nhau giữa chúng với nhau và với một số sao khác có tính khá gần với chúng thì rất khó vận dụng. Về Địa không và Tuần Không thì anh TKTV đã nói một lần rồi, nay vuivui Tôi nhắc qua cho có mạch mà thôi.

-Địa không có tính chất Không nhưng bản chất là Vong.
-Tuần không có tính chất không nhưng bản chất là Hư, vô khí.
-Triệt không có tính chất không, nhưng bản chất là Phá, cũng vô khí.
-Thiên không có tính chất không nhưng bản chất là Hoàn không.
-Nhị Hao là Hao tán, nhưng bản chất thì chúng hoàn toàn khác với Không Vong, nhưng không phân biệt cặn kẽ dễ dẫn đến lối đoán “vơ đũa cả nắm”, khii đi chi tiết hơn sẽ dẫn đến sai lầm.

Địa không với bản chất Vong của nó, khi gặp sẽ có hung hoạ, vì thế vận hạn mà gặp nó, khi nó tác hoạ thường người mất nhà tan, cơ nghiệp tan tành, nhẹ thì bệnh tật nặng nề kèm thêm phá gia, tán tài.

Tuần không với bản chất là Hư, vô khí nên khi gặp nó sẽ có tác dụng kềm hãm, gây bất trắc, khó khăn, bạc nhược. vì thế Thiên tướng gặp Tuần không thi nghèo khó, bần hàn chứ không đến nỗi táng mạng, Thiên tướng đang hiên ngang là thế mà gặp Hao thì so vai rụt cổ. …

Triệt không với bản chất là Phá, cũng vô khí nên gặp nó, mới có câu: “Tam phương xung sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng” nghĩa là Tất cả các hung dữ chiếu lại gặp Triệt thì vững lại, bình an chứ không phải là đang gặp khổ sở vì không có tiền mà gặp Triệt là có tiền tiêu, cũng có nghĩa là sau khi đã giải toả được hung hoạ, con người được an toàn rồi thì cái vịec xây dựng cơ đồ không còn là nhiệm vụ của Triệt nữa, mà xây dựng ra sao phải là do Mệnh, …cũng thế, không nên hiểu, ví dụ người đang thị án tử hình, nếu có cuộc cách mạng hay đổi luật mới thì có khi người đó lại được ân xá, thoát án tử hình, nhưng việc hoàn lương hay tiếp tục bất lương thì không phải là nhiệm vụ của Triệt.

Thiên không với bản chất Hoàn không nên khi gặp mà đang làm ăn buôn bán thì thất bại, dễ mất của trắng tay, phá sản. Đang làm quan mà gặp thì sẽ có nhiều hẹ lụy mà dẽ mất chức, …

Hao thì gặp nó là hao tán, mất mát, ..

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...