Chuyển đến nội dung chính

Tử Vi Đẩu Số Tính chất của Hóa Quyền tại các cung


Hóa Quyền thường được gọi là sao nhưng thực chất chính là Hóa Khí theo Thiên Can của Chính Tinh. Các chính tinh và bàng tinh đều có các tính chất gồm các khí tạp phối hợp trong cùng một sao. Với Chính Tinh và hai phụ tinh Xương Khúc Tả Hữu chịu tác động lớn của Thiên Can thành các khí trở nên thuần của bốn thứ Khoa Quyền Lộc Kị. Vì vậy, sức tác động của Tứ Hóa mạnh hơn và tác động lớn tới cách cục hơn các sao. Hóa Quyền tức chủ quyền lực, uy quyền, tự do, ảnh hưởng tới người khác. Hóa Quyền do từng chính tinh hóa khí mà có những gốc khác nhau, cho dù đều chủ Quyền. Tử Vi hay gọi Hóa Quyền là sao ám chỉ cho Chính Tinh sinh ra Hóa Quyền. Với sao Hóa Quyền cơ bản nhất là quyền lợi, lớn hơn là quyền lực, quyền quý,... để chứng minh địa vị uy tín của bản thân với xã hội.
" KHOA QUYỀN NHẬP MỆNH TUY NHÀN LẠC DIỆC HỮU HIỂN DANH".
Mệnh có Hóa Khoa hoặc Hóa Quyền tọa thủ tại bản cung, không phải các trường hợp tam hợp hoặc xung chiếu tuy bị Sát Tinh vây chiếu hoặc vị trí Chính Tinh không đắc ý nhưng hiển danh. Trường hợp có cả Khoa Quyền có thể tam hợp chiếu hoặc củng chiếu. Hóa Khoa là sự tốt đẹp, to lớn, hiểu biết, giá trị khiến Quyền hành, uy tín lớn lên.
" KHOA QUYỀN NHÂN KHÔI VIỆT DĨ THÀNH CÔNG".
Thực chất mệnh có Khoa hoặc Quyền tỉ lệ vẫn hay gặp. Trong mỗi Thiên Can tỉ lệ 1/12 người có cách này. Với bộ Khoa Quyền hiếm gặp hơn khi chỉ có một số Thiên Can như tuổi Giáp là Phá Quân và Vũ Khúc, tuổi Bính là Thiên Cơ và Văn Xương. Với tuổi Ất thì Hóa Quyền tại Thiên Lương, Hóa Khoa tại Tử Vi không thể hình thành bộ Khoa Quyền. Vì vậy, có Khoa Quyền đã là hơn người, đây là trong trường hợp chưa kiến sát tinh và sao bất hợp cách. Khoa Quyền có thêm bộ Khôi Việt là cách khó đạt được hơn vì bộ Khôi Việt cư tại các cung khác. Đây thuộc cách nổi trội, vượt trội hơn người vì có Khôi Việt, cũng là cách Hóa Khoa ngộ Văn Tinh nhất bảng khoa. Chỉ cần tính trung bình khả năng số người có các cách hiếm là có thể đánh giá được lá số của bản thân. Tứ Hóa gồm Khoa Quyền Lộc Kỵ là cần thiết nhất rồi mới đến các bàng tinh khác vì gắn liền với Chính Tinh. Hóa Quyền có một cách nổi bật chủ nổi danh là cách Quyền Khốc.
" Quyền Khốc minh danh vụ thế".
Hóa Quyền chủ cô, uy, cương khi đi với Võ Tinh hay Sát Tinh đều khắc chế được một phần. Với Thiên Khốc là sầu tinh nhưng có tính ương ngạnh đi với Quyền, tức đồng cung là cách kiên cường, quyết tâm. Phượng Các tại tam hợp ngộ Quyền chính là cách Quyền Phượng chủ tăng trọng lượng, được chúng theo. Hóa Quyền cư cung nào có ý nghĩa với chính cung đó. Như việc Hóa Quyền cư Tài các tính chất Quyền được luận đi liền với Tài Bạch. Nếu cư Quan Lộc thì đi liền với công việc, uy tín xuất phát khi làm việc, hoặc từ vị trí địa vị công việc. Cư Thiên Di ra ngoài xã hội, giao tiếp bên ngoài được nể trọng. Tuy nhiên Quyền tại Mệnh khác tại cung Di mặc dù đều bản thân được đánh giá. Quyền cư tại cung Mệnh có bản chất từ tính cách ban đầu tác động tới tất cả cung còn lại. Quyền tại Thiên Di là vì một lí do thể hiện ra bên ngoài được đánh giá là uy tín. Quyền tại Mệnh bao gồm cả Thiên Di. Cũng thực chất là do quan hệ xung chiếu của Chính Tinh. Như bên trong mệnh có Thiên Tướng, bên ngoài Phá Quân hóa thành Quyền khác bên trong tự Hóa Quyền.
" Khoa Quyền củng chiếu bất như lâm viên".
Hóa Quyền xuất phát từ các sao có tính Sát như Phá Quân khác những sao như Thiên Lương hóa thành Quyền. Một bên quyền lực do sự phá, bắt,... gây ra thường đi liền với nghề nghiệp cảnh sát, quân sự,... Một bên Quyền đến từ sự từ tâm, may mắn, che chở tức quyền hành đến từ sự quan tâm mà kẻ khác nể phục uy. Các Quyền sinh từ Chính Tinh khác nhau tuy cách thức khác nhưng kết quả chung đều là tính chất cơ bản của Hóa Quyền.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...