Chuyển đến nội dung chính

Tử vi đẩu số Tử Vi Tuần San Cung Phu Thê


Trên lá số Tử vi Đông phương, cung Thê trên lá số Nam chỉ về đường Hôn phối; cung Phu trên lá số Nữ chỉ về đường phu quân. Chúng ta có thể xem xét qua cung Phu Thê để biết được tình trạng của cả hai về đường Phối ngẫu. Tính chất về người Hôn phối có nhiều sự kiện khác nhau mà khoa Tử vi Đông phương cho thấy tương đối khá chính xác: trường hợp một người Nam hay Nữ trong đời có mấy lần thành hôn, trường hợp chồng sợ vợ, trường hợp khắc kỵ nhau, trường hợp hòa thuận.
Nguyên tắc cơ bản đầu tiên
Nguyên tắc đầu tiên nên ghi về cung Phối Ngẫu, là một sự khác biệt trong cách giải đoán tùy theo là cung Phu hay là cung Thê. Như lá số Nam có cung Thê thì giải đoán ở cung này là về phần người vợ. Còn lá số Nữ có cung Phu thì một số giải đoán ở cung này không ứng về phần người chồng, mà ứng về phần người vợ, tức là người có lá số.
Thí dụ: Một người Nam có Thiên Tướng ở cung Thê thì đó có nghĩa là bà vợ rất tháo vác, đảm đang, tinh thần cứng cỏi và ông chồng phải nể nang, kính trọng! Nhưng một bà có Thiên Tướng ở cung Phu, thì lại không có nghĩa là bà ấy sợ chồng, mà lại vẫn có nghĩa là ông chồng phải kiêng nể vợ. Nguyên do là vì theo cái đạo “xuất giá tòng phu” của Đông phương xưa là vậy.
Cũng có trường hợp là sự truyền tinh ở 2 lá số Tử vi của Nam Nữ vợ chồng. Như cung Thê của Nam số có Tử vi thì cung mạng của Nữ cũng có Tử vi.
Trường hợp vợ khắc chồng
Người vợ khắc chồng là người có mấy đời chồng hay ly dị chồng, hoặc bị chồng bỏ, hoặc chồng chết yểu góa bụa. Nhưng đừng tưởng mạng người Nữ khắc chính tinh ở cung Phu, là khắc chồng (vì mạng chồng lớn, vợ không thể khắc dễ dàng). Điều đó chỉ có nghĩa là Hôn phối bị trắc trở.
Cái chính là số chồng phải yểu thì mới bị góa chồng; còn số chồng vững thì không sao. Ngoài ra, xem cung Phu của người Nữ, việc quan trọng là phải nhìn cung Mạng xem có Không, Kiếp hay Phi liêm hay không. Người Nữ mà có Không, Kiếp ở mạng, nếu lại không có sao giải như Hóa khoa, Thiên quan, Lộc tồn là số người long đong về đường chồng con; có thể có mấy đời chồng. Còn như không có Không, Kiếp thì chẳng sao.
Tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp do “đức năng thắng số” khi người ta biết cải số hữu hiệu; có nghĩa là biết tu nhân tích đức và ăn ở tốt với chồng con vẫn giữ được hạnh phúc trọn đời. Cho
nên ca dao về lý số có câu:
Những người cứ số là ngu,
Ta thời lấy Đức mà tu với Trời.
Những trường hợp sợ vợ
Khi nào thì một người nam có lá số Tử vi sợ vợ? Kinh nghiệm giải đoán qua nhiều lá số giúp chúng tôi rút ra những quy tắc sau đây:
1. Mỗi cung số ở vào một bộ tam hợp; có một hành gọi là hành của tam hợp. Có 4 bộ tam hợp là:
– Dần, Ngọ, Tuất: Hành Hỏa
– Tỵ, Dậu, Sửu: Hành Kim
– Thân, Tý, Thìn: Hành Thủy
– Hợi, Mão, Mùi: Hành Mộc
Thí dụ: Một người Nam tuổi Nhâm Thìn số Tử vi có Mạng ở cung Hợi, Thê ở cung Dậu.
Tam hợp Mạng (Hợi, Mão, Mùi) thuộc Mộc.
Tam hợp Thê (Tỵ, Dậu, Sửu) thuộc Kim.
Ta có Kim khắc Mộc, tức là Tam hợp Thê khắc Tam hợp Mạng: người Nam tuổi Nhâm Thìn này là người sợ vợ. Thực tế nhìn bên ngoài chúng ta sẽ nhận thấy người Nam này rất hiền lành, tốt.
Ngược lại ở lá số Nữ, tam hợp Phu khắc tam hợp Mạng, lại không có nghĩa là vợ sợ chồng, mà vẫn có nghĩa là người Nữ đó cầm quyền trong gia đình, ông chồng phải kính nể vợ.
2. Ở lá số Nam có cách Thân cư Thê; có nghĩa là vận mạng mình bị ràng buộc vào người vợ hay nói cách khác là sự nghiệp của mình trong đời phần lớn do người vợ góp sức mới nên. Lẽ đương nhiên phải gặp được người vợ hợp tuổi và đảm đang thì mới được hưởng giàu sang mãn nguyện trọn đời.
Số Nữ Thân cư Phu nên được cung Phu tốt thật là sung sướng hạnh phúc một đời:
Chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung.
Cho nên giải đoán cung Phu và cung Thê trong lá số Tử vi phải khác nhau.
Trường hợp khắc kỵ, chồng mấy đời vợ
Hồi còn sống ở Saigon, VN, chúng tôi có may mắn được đến học Tử vi với cố Lý số gia Thiên Lương (xin đừng lầm với Pháp sư Thiên Lương, cư sĩ Thiên Lương hoặc Suma Thiên Lương… đang quảng cáo trên các tờ báo thương mại ở hải ngoại này). Một hôm có người cầm lá số Tử vi đến hỏi cụ Thiên Lương về cung Thê. Cụ liếc qua lá số trên tay rồi nói ngay:
– Ông bị đến mấy đời vợ rồi phải không?
Ông này nhận đúng và thưa:
– Tôi có cả một người vợ chết nhưng tại sao lại như vậy được? Cung thê của tôi có chính tinh
Thái Âm vừa ở chỗ Miếu vừa ở cung Dậu là cung Âm đắc cách. Như thế là quá tốt. Sách Tử vi nào cũng nói có Thái Âm tại Dậu ở cung Thê là rất tốt. Mà sao tôi lại 3 đời vợ rồi!
Cụ Thiên Lương thong thả trả lời rằng:
– Thái Âm ở Dậu tại cung Thê thì tốt thật. Nhưng mạng ông là mạng Thổ, Thái Âm là Thủy. Thổ khắc Thủy, cho nên ông khắc vợ phải chịu cảnh mấy đời vợ cũng đúng.
Ông kia lại đưa ra lá số của người anh và thưa tiếp:
– Thưa cụ, còn ông anh tôi, cung Thê có Tử vi, lại ngộ Triệt là hỏng. Sách Tử vi dạy rằng cung Thê ngộ Tuần, Triệt thì bị Hình khắc chia ly mà sao anh tôi chỉ có một vợ, sống hạnh phúc với nhau đã 40 năm nay?
Cụ Thiên Lương lại ôn tồn giảng tiếp:
– Tuy có Triệt, nhưng Tử vi thuộc Thổ. Thổ sinh cho mạng Kim nên vợ chồng toàn hảo. Chỉ chậm lấy vợ, là do ảnh hưởng của Triệt.
Do đó, chúng ta rút ra được nguyên tắc sau đây:
1. Cung Thê có Tuần, Triệt: lấy vợ trễ. Hoặc “viễn phối tha hương” tức lấy vợ ở xa nơi sinh, xa quê hương.
2. Hành mạng khắc hành chính tinh ở cung Thê, người đó khắc vợ. Nếu không có sao giải hóa thì phải có mấy đời vợ.
3. Mạng và chính tinh ở Thê đồng hành hay sinh cho nhau; hay chính tinh ở Thê khắc mạng: chung sống với nhau lâu dài. Không ở lá số Nữ, thân cư Phu là thuận chiều nhất; cuộc đời của mình ràng buộc vào chồng, được nhờ chồng và vợ có nể chồng vì được chồng cưng cũng hợp lý thôi.
4. Lá số Nam, cung Thê có Hóa quyền có nghĩa là người vợ có quyền trong gia đình. Và theo quan niệm Đông phương, người vợ là nội tướng của gia đình.
Nếu có 2 trong 4 yếu tố trên thì sự nể vợ càng rõ ràng hơn. Có khi vợ giúp chồng nhiều nên vợ cũng dễ lên mặt; có khi vì chồng quá bê bối nên phải sợ vợ; có khi vì chồng đàng hoàng không may gặp phải người vợ lăng loàn nên vì danh dự của mình mà chồng phải nể vì không dám làm to chuyện xấu mình; có khi vì chồng tánh quá lành trong khi vợ tánh quá dữ dằn, ăn hiếp chồng được mới yên.
Trường hợp vợ hay chồng hòa hợp
Ông bà ta trước kia khi lấy vợ gả chồng cho con cái thường đi coi để so đôi tuổi xem có hợp hay không? Hợp thì mới tiến tới Hôn nhân. Tuy cũng có nhiều trường hợp chẳng may gặp tuổi khắc kỵ nhưng hai bên vì nghĩa, vì tình đã kết thân với nhau thì việc cưới xin vẫn diễn ra một cách bình thường. Và ông bà ta tìm đến Thầy cao tay ấn để chọn ngày kén giờ, để yểm trấn cho cuộc lương duyên của đôi trai gái được ăn đời ở kiếp với nhau đến trọn đời.
Chúng ta trọng nghĩa khinh tài
Coi đời là một hội bài đỏ đen.
Nhưng trong việc so đôi tuổi cũng rất phức tạp vì cổ thư để lại chính thư lẫn với man thư. Nếu không gặp được Thầy có chân truyền thực học làm sao giải quyết được sự việc đi đến một cuộc Hôn nhân tốt đẹp.
Nhân đây cũng xin tóm tắt các yếu tố quan trọng như sau:
1. Hành mạng của Nam và Nữ sinh cho nhau hoặc khắc nhau.
Sinh cho nhau thì tốt, còn nếu khắc nhau thì mạng chồng khắc mạng vợ tốt hơn vì thuận lý sinh khắc.
Tốt nhất: Mạng vợ sinh cho mạng chồng. Thí dụ vợ mạng Thổ sinh cho chồng mạng Kim. Vợ giúp đỡ chồng nên sự nghiệp.
Tốt nhì: Mạng chồng sinh cho mạng vợ. Thí dụ, mạng chồng Hỏa sinh cho mạng vợ Thổ. Chồng phục vụ vợ và cả hai được sống hạnh phục.
Tốt ba: Mạng chồng khắc mạng vợ. Thí dụ, chồng mạng Mộc khắc vợ mạng Thổ. Sự khắc này thuận lý thì vợ chồng vẫn thuận thảo, ăn nên làm ra. Tuy khắc mà không sao hết.
Xấu: Mạng vợ khắc mạng chồng.
2. Điều quan trọng vẫn là so sánh 2 lá số Tử vi, thấy có sự tương hợp trong toàn bộ kể cả các đại vận. Thí dụ:
– Số Nam sống lâu mà số Nữ lại góa chồng thì không hợp. Số Nam yểu mà số Nữ sớm góa bụa thì hợp.
– Số Nam và Nữ, số con qua cung tử tức gần giống nhau là hợp.
– Giàu hay nghèo gần như nhau là hợp.
– Đại vận 10 năm trên lá số thấy sự tương đồng là điều đáng tin cậy nhất.
Làm thế nào để cải được bệnh “khắc khẩu” giữa vợ chồng?
Chứng “khắc khẩu” tuy không có vi trùng độc hại, nhưng hậu quả của nó lại rất nguy hại khôn lường. Thông thường một đôi vợ chồng đã đi đến sự khắc khẩu tất sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường sau đó. Cũng do hậu quả tai hại của chứng “khắc khẩu” mà người xưa đổ cho số mệnh là tiêu cực không đúng.
Ngày nay, xét qua góc độ “bệnh lý học” thì chứng khắc khẩu là một bệnh chứng tâm lý, bệnh căn của nó phát xuất từ việc hai vợ chồng trái tính, trái nết bất phục lẫn nhau.
Theo nhà tâm lý học người Mỹ là Jean Mason, nếu chúng ta muốn ngừa chữa chứng khắc khẩu cần phải chú ý những điều sau đây:
1. Phải tìm hiểu kỹ tâm tính của nhau trước khi kết hôn.
2. Chỉ tiến đến kết hôn khi đã thật hiểu về nhau và thấy thật phù hợp về tính ý.
3. Để tránh vợ thất vọng và coi thường, người chồng phải có một nghề nghiệp ổn định, một phẩm cách tốt đẹp, một tấm lòng bao dung.
4. Để tranh bị chồng coi rẻ, người vợ phải không vị kỷ, tháo vát việc gia đình, có phẩm chất tốt, có uy tín với mọi người trong gia đình chồng và nhất là phải có một nghề trong tay để tự lập.
5. Cả hai vợ chồng phải sống thật bình đẳng, thành thật với nhau và thương yêu tôn trọng lẫn nhau.
6. Hai vợ chồng phải sống thật thủy chung với nhau, tránh những quan hệ tình ái bất chính.
7. Hai vợ chồng phải biết hy sinh cá tính để hòa đồng vào nhau, phải biết nhường nhịn và tha thứ cho nhau.
8. Hai vợ chồng phải tránh xúc phạm đến tự ái của nhau và phải trao đổi một cách tế nhị những vấn đề xảy ra trong cuộc sống dù to, dù nhỏ, không được ai lấn lướt ai, nên tìm một quyết định chung, một giải pháp chung.
9. Hai vợ chồng phải đặt hạnh phúc gia đình, danh dự gia đình, tình thương con cái, tương lai con cái lên trên tất cả mọi bất đồng nếu có để giữ hòa khí.
10. Hai vợ chồng phải thật sáng suốt trong cuộc sống lứa đôi của mình để tránh bị người ngoài mê hoặc, xúi bẩy gây ra bất hòa đổ vỡ.
Nói tóm lại, trước sự đa dạng của tâm lý, tính tình con người; những điều ngừa chữa chứng khắc khẩu trên chỉ là những tiêu biểu tương đối. Tuy nhiên, nếu biết ứng dụng vào cuộc sống một cách linh động có thể coi đó như những điều kiện tham khảo để tự chữa bệnh khắc khẩu có hiệu quả cao. Ông bà chúng ta cũng có rất nhiều lời khuyên về cuộc sống vợ chồng mà câu ca dao dưới đây đáng được ghi khắc vào tâm khảm mọi người:
Chồng giận thì vợ làm lành.
Đến khi vợ giận, xin em anh chừa.
Chính bản thân người viết bài này, đã có kinh nghiệm trải qua cuộc sống vợ chồng tròn 50 năm.
Tuy có đôi lúc sóng gió trong đời sống sao tránh được? Nhưng sau mỗi cơn giông tố cả hai chúng tôi đều biết tự chế nên cuộc sống vẫn êm đềm tốt đẹp đến ngày hôm nay để hãnh diện tổ chức ngày vui kỷ niệm 50 năm sống chung Hạnh phúc.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...