Chuyển đến nội dung chính

Tử vi lý số bùa mê thuốc lú Khoa Quyền Lộc


Người đời có nhiều mơ ước. Lúc còn nhỏ ước mong học giỏi đậu cao, lớn lên mộng tưởng quyền cao chức lớn, lắm bạc nhiều tiền là ba chữ Khoa Quyền Lộc với cuộc thế nhân sinh.
Lúc đầu học số có thể nói đa số sợ Thái tuế và ham mê Khoa, Quyền, Lộc. Cho tam hoá là bùa hộ mạng đem lại tất cả những gì hãnh diện cho đời. Thật thế ngay 3 cái tên đọc lên cũng đã đủ nghĩa lắm rồi.
Hoá là thay đổi sinh sản như đã có câu “Hoá công sao khéo phũ phàng” có ý trách khéo thợ Trời diễn biến ác nghiệt làm chi. Hoá khoa, Quyền, Lộc là lớp lang đưa đến cho người đời cảnh mão áo quyền uy giàu có. Nhưng tam Hoá đâu có phải là khả năng tư cách nghị lực của cá nhân nâng cao phẩm giá, chỉ là cái áo rực rỡ lần lượt khoác vào để đóng vai trò nào thôi. Hẳn đó không phải là thầy tu chính xác.
Bộ 3 này riêng Hoá khoa có một giá trị lướt hơn cả là màn đầu đưa dến Quyền, Lộc. Khoa chủ nhân hậu uyên bác đặc biệt là từ thiện giải trừ tai hoạ. Nữ mệnh đắc Khoa là tối quý, dầu gặp ác sát cũng vẫn dự phần phẩm cách.
Xã hội nhân sinh có bốn hạng người: Người Thái tuế, Quan phù Bạch hổ là người nghĩ đến phận sự của mình như có trách nhiệm phải làm. Một khi đã nhúng tay là phải làm sao cho xứng đáng tư cách nhân phẩm, đâu có cần phải Khoa, Quyền, Lộc, nếu có chỉ là gấm thêu hoa. Một chiếc cẩm bào tứ linh, Long, Phượng, Hổ, Cái cũng quá đẹp rực rỡ hơn đời. Riêng người Bạch hổ mang danh nghĩa khí, không còn để ý đến quyền lộc riêng tư, một khi gánh vác những điều làm chánh nghĩa thì ham mê với bất cứ giá nào (Lê Thái Tổ và Sở Vương Hàn Tín).
Người Thiếu âm, Long đức,Trực phù là người có thiện chí làm việc tiếc rằng phận hẩm duyên hiu, luôn luôn bị đời bạc đãi, dẫu có Khoa, Quyền, Lộc chỉ càng thêm đau đớn. Hai hạng này là người trước đáng trọng, người sau đáng mến.
Hạng Tuế phá là người bị hoàn cảnh làm cho vụng suy thất ý. Nếu không giữ được chính tâm và thêm Khoa, Quyền, Lộc quyến rũ rất dễ làm những việc bạo nghịch để vinh thân rồi ra ngàn năm lưu xú ố danh. Khá thương cho người Điếu khách ra công thuyết phục phân trần lẽ phải cách mấy cũng không  đem lại gì khác hơn tình cảnh hiện tại.
Người Tang môn thường thường có khóc mướn thương vay bao nhiêu cũng vẫn là nước chảy ra sông. Trường hợp được Khoa thêm Tả Hữu thành danh đáng kính vì tính tình nhân hậu; đặc biệt khả năng uyên bác, dầu dược Mã đồng tình phò trợ cũng vẫn hữu công vô lao, họa chăng được chút danh thơm hậu thế (Khổng tử).
Người Thiếu Dương, Tử phù, Phúc đức được tư chất thiên phú thông minh nhạy cảm hơn đời, đừng tự hào mê ham tục luỵ, Hoàn cành này chữ  “Đức” đáng trọng bằng ba chữ Tài. Ngẫm ra cuộc đời chỉ là con số “KHÔNG” trống rỗng quá lớn!
Khoa Quyền, Lộc ở với 2 hạng này có khác gì bùa mê thuốc lú làm cho người say đắm bả vinh hoa, lầm lạc mùi  phú quí. Vung tay quá trớn, một khi hối cải thì việc đã rồi.
Nói đến Khoa, Quyền, Lộc không lẽ không phác qua đến một đặc phái em út trong giòng họ Hoá là Hoá kỵ. Người đời mến chuộng Khoa Quyền Lôc bao nhiêu, trái lại Hoá kỵ làm cho ai ai thảy đều muốn xa lánh, nhất là những người tuổi có hàng can Bính, Đinh hay Hoả mệnh. Hoá kỵ núp sau hình tượng của Liêm trinh và Cự môn mà gây hoạ.
Được liệt kê vào hàng ngũ sát tinh cùng bè lũ Không,Kiếp, Kình Đà Linh Hoả cũng như Thiên Hình ám hại cho mộc mệnh và giòng họ Giáp Ất, ngoài ra Hoá kỵ chỉ có tính cách suy giảm những gì tốt đẹp, vì chữ Kỵ chỉ có nghĩa ghen tuông, hờn giận phá hại. Đặc biệt nữ mệnh đắc Khoa tốt đẹp bao nhiêu, một khi vướng phải Kỵ khác gì gấm vóc bị vấy bùn đen nên cổ nhân đã gọi hoá Kỵ là sao Kế Đô của phái yếu.
Dầu sao cũng là giòng họ Hoá, ba nghành trên đã bồi dưỡng sự nghiệp công ích khá lớn  với đời, không lẽ nghành út lại quá tồi tệ không được điểm nào mua chuộc lỗi lầm bấy lây hư thân mất nết. Trường hợp không thể tưởng tượng nổi Hoá Kỵ đứng chụm cùng nghành trưởng Hoá khoa nơi đắc địa Tí cung đắc Thiên lương hội chiếu được chúng nhân trọng vọng quân dân ái mộ. Hội với Liêm Tham ở Tỵ hợp cách phải là người Hoả mệnh, hoặc Liêm Tham ở Hợi phải là người Kim mệnh, Hoá kỵ căn phân được hung hãn phi thường. Trái lại người Kim mệnh ở Tỵ hoặc người Hoả mệnh ở Hợi, Liêm Tham hội Hoá Kỵ, lao ngục đã mở rộng sẵn sàng rước thân chủ.
Đây chỉ là một cách chế hoá của ngũ hành, căn phân được thì tốt, lệch lạc sẽ thành hung.
Cụ Phan Bội Châu tuổi Đinh Mão sinh ngày 11 tháng 5 giờ Sửu, Cự môn Hoá Kỵ thủ mệnh ở Tỵ là cả một kiếp nhân sinh được tạo hoá căn phân cho mạng sống để mà nặng lo (Tang môn) việc đời..Cái THÂN đáng trọng ở vị trí Quan Phù ngôi vị của người trước sau tính toán kỹ càng mới ra tay lãnh nhiệm vụ. Một Thiên Lương gồm đủ Khôi, Việt, Xương Khúc Khoa Quyền Lộc mà nhất quyết rũ áo từ bỏ cái mộng khanh tướng lao đầu vào công việc quá khó khăn kêu dân cứu nước. Cự môn, Thiên hình, Hoá kỵ là tất cả những gì gần đất xa trời tù đày hình phạt. Khôi Việt phục lực Thiên Lương sao bằng mọi sự xung sát với thế căn phân của mệnh Hoả ở Tỵ cung đụng nhầm Cự môn Hoá Kỵ.
Đành rằng Quyền ngộ Phá, Lộc bị Triệt, nhưng phải là THÂN Quan Phù mới dứt khoát từ bỏ bả vinh hoa Quyền Lộc để hãnh diện với Long Phượng Hổ Cái danh thơm muôn thuở. Khoa chỉ là phương tiện để Cụ dễ làm việc
Phân tách kỹ lưỡng 3 chữ Khoa Quyền Lộc, trưởng đoàn hiển nhiên là Khoa rất xứng đáng và địa vị khiêm nhường nhất phải là Quyền.
Khoa, ngoài tính tình nhân hậu, có một khả năng đánh giá mới chiếm được bảng vàng giữa chốn trường quy. Tài năng này khổ công rèn luyện mới có là điều quý trọng, huống chi còn tiềm tàng sâu rộng “ đức”cứu khốn trợ nguy.
Quyền chỉ là sự may đạt được. Nếu vụng tính sẽ sinh kiêu, rồi vì lòng tự ái có thể đem đến kết quả việc làm ác nghiệp thì đâu phải chiếm được địa vị chắc chắn lên trên “Lộc”.
Số phải chăng là bản dự thảo một cuộc sống đã được sắp đặt gọi là định mệnh, mà THÂN kia đã dự một phần nào sửa chữa nên mới có “Đức năng thắng số”.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...