Chuyển đến nội dung chính

Tử Vi Lý Số Nghiên cứu cung Thiên Di


Vô luận cung nào trong 12 cung cũng đều là của Ta – Chủ nhân lá số. Bất kỳ cung nào cũng có:
1 CHÍNH CUNG (đang xét) + các cung Hoàn Cảnh (Tam hợp và Giáp, và đôi lúc cần xét luôn cung Lục Hợp) + Cung Xung là đối tác của Ta (hay hoàn cảnh – Hạn).
Thông thường trong luận giải Tổng quát, khi bàn đến cung Thiên Di – Với H, luôn luôn nhìn về các cung trong Tam hợp để hình thành tam giác Phúc Di Phối – Một mối quan hệ Hữu cơ.
Nếu nhìn từ Mệnh, thì đó là Mệnh Tài Quan và xung là Di…..Con người là một mối Tổng hòa cực kỳ phức tạp, và Tử vi dành cho con người nên nó phức tạp không hơn không kém. Trong một chừng mực nào đó, ta tự hỏi: có công thức cố định cho con người không? Nếu trả lời không thì ắt Tử vi cũng không có công thức cố định để trúng cho mọi trường hợp. Đó là một điều hiển nhiên, vì sự phối hợp của biết bao nhiêu Tinh Đẩu, tùy thuận vào sự sáng suốt, linh cảm, khả năng lý thuyết tử vi mà cho 1 kết luận của 1 việc trong muôn trùng thông tin. Quan trọng trong mọi luận đoán đó là Cách cục và tinh nghĩa của các sao khi phối hợp. Vô luận cung nào trong 12 cung đều tồn tại ít nhất 1 cách cục cho nó, và 1 cách cục cho xung.
Trong lá số Tử vi có 2 cường cung quan trọng nhất là cặp Mệnh – Thân, nếu nói cung an Thân ở Di là xuất ngoại, định cư nước ngoài thì quả là cực kỳ hạn hẹp trong suy nghĩ và dẫn đến trước ý và sai lầm trong luận đoán….Nếu suy nghĩ thế, người Thân cư Quan thì suốt ngày ở Cty, Thân cư Tài thì suốt ngày đếm tiền (bí lối là không biết đếm ở đâu????),…..Vậy cung an Thân quan trọng như thế nào?
Với quan đểm của H, và trong chừng mực của 1 vấn đề của Topic: là khi vào hạn quá xấu thì xem cung an Thân có bị đe dọa hay không?
Riêng về vấn đề ĐI LẠI:
Có người định cư ở nước ngoài nhưng cả đời không mấy khi đi đâu ngoài nước định cư; Cũng như người trong nước có người chẳng mấy khi đi đâu ngoài địa phương ở, công việc thì ngồi lỳ tại chổ…..Sẽ có lúc đi lại nhưng đó là do số đến Hạn Đi Lại nhiều!
Và có người ở trong nước nhưng suốt ngày phải bôn ba ngoài đường: tại cùng 1 địa phương, đi địa phương khác, đi nước khác….
Và cũng chữ Đi đó còn chia nhiều kiểu: đi vội vã, lật đà lật đật – tất bật, chạy trối chết để vượt thoát hoàn cảnh……
Ngoài cách cục cố định có Đi hay ở nước ngoài hay không? Còn tìm hiểu hạn nào đi, ….Và đi có trở về hay không….Chứ nào chỉ mỗi cung Di!!!!!
Vì thế trong lá số Tử vi quan trọng nhất là sự cân bằng, vì bất kỳ cung nào cũng có thể trở thành hoàn cảnh chủ yếu của ta (Hạn) + các cung hoàn cảnh, cung đối tác…..Cái gọi là hoàn cảnh, đối tác chỉ nên hiểu ở nghĩa tương đối, nghĩa phương tiện trong topic này thôi!
Đây là cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương + Tuần và xung là Cự Nhật Mã Lộc.
– Nữ Mệnh ôm Cơ Nguyệt Đồng Lương là quá hợp cách nhưng…. (để nói sau, với H bao giờ cũng thế luôn cần chữNhưng: là có thật thế chăng?).
– Xung là Cự Nhật:
+ Đây là hình ảnh những ngày (Thái Dương) xa cách…những ngày sống nơi xa, kiếm tiền nơi xa (Lộc Mã). Cự Nhật còn có nghĩa hình tượng là người Chồng mà công việc phải hay đi lại, hay phải sống xa cách trong nhiều nghĩa (vì công việc phải thường xuyên đi xa, và ý nghĩa nữa là sống gần cự ly nhưng lại xa cách trong lòng)…….
+ Ở đây có cách Cự Ấn Tướng + Tồn Hình ở Phúc Di Phối có Địa Không: đó là hình ảnh quê quán dòng họ chỉ là hình ảnh hoài niệm và thậm chí ngay cả hình ảnh người Chồng, Cha cũng thế……Còn chăng là nước mắt ở lại, xa rồi những ngày yêu thương! Dễ bất mãn với người phối ngẫu, người Cha….
Trở về cung an Mệnh:
Cơ Nguyệt Đồng Lương một bộ sao hiền hòa nhưng đã bị phá cách vì Hỏa Linh + Kiếp.
Với cách an sao của cá nhân H, thì tuổi Canh an Khôi Việt khác không như lá số này, cụ thể tuổi Canh: Khôi ở Mùi, và Việt ở Sửu. Nếu có Khôi Việt ở đây thì lá số càng xấu tệ….
Đây là dạng người tay chân nhanh nhẹn hơn sự suy nghĩ, hay được của hoạnh tài (không làm mà có, làm ít hưởng nhiều…) nhưng cuối cùng là như bong bóng xà phòng..ít qua tâm tới tiền.
Mệnh ôm chú Hỏa Linh, cặp song hùng kỳ hiệp này khi hạn đến có Tang gặp Lưu Tang rất dễ bị té ngã và bị hình tích nhất là hạn gặp Khôi Việt! Cần quán xét nội tâm đễ luyện sự điềm tĩnh.
Dễ bị tai ách vì hợp tác làm ăn, nạn đến vì sinh con, từ trong bụng mà ra…. Và hay bị xét nét, dò xét trong lúc tánh lại chi li.
Tóm lại ở đây chỉ nhận xét và không xem số nên H chỉ liệt kê sơ khởi vậy thôi….

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...