Chuyển đến nội dung chính

Góc nhìn phong thủy lập mộ


Mộ còn gọi là mồ hay mả, là nơi chôn cất người chết theo phương thức địa táng (chôn xuống đất).Một số hình thức khác như hỏa táng (thiêu xác), thiên táng, huyền táng … thì không có khái niệm mộ

Đặc điểm mộ là một phương thức táng người đã khuất phổ biến toàn thế giới theo hình thức địa táng, mộ thường nằm tập trung ở các nghĩa trang hoặc nằm riêng lẻ, với xác người chết hoặc tro đốt xác chôn bên dưới. Mộ có cái có nhà mồ hoặc có quy mô bề thế hơn được gọi là lăng (từ này thường dùng để nơi cất giữ di hài của vua chúa và danh nhân).

Việc đặt mộ rất quan trọng. Cái họa phúc mà người xưa nói tới qua cụm từ “Nhất mộ nhì phòng tam bát tự” là nói về việc mộ đặt có được đất được hướng hay không chứ không phải nói về nhà ai đó có bàn thờ to hay bé, đặt chỗ nào trong căn hộ và hàng ngày thắp bao nhiêu nhang, giá trị đồ thờ lớn hay nhỏ.

Mộ là một đơn nguyên độc lập giữa đất trời. Theo cuộc đất và thời gian táng và ý định táng của chủ nhân mà xác định họa phúc cho lục thân trong huyết thống, Trưởng thứ theo đó mà thụ hưởng chứ không ai ban phát theo ý cá nhân được cả - Nó đã được khẳng định trong ý định từ khi an táng rồi, người biết thì phải làm từ công đoạn ấy. Muốn thay đổi thì phải cải táng hoặc bồi táng lại. Việc cải táng hay bồi táng lại phải căn cứ vào thực tế những biến động xấu xảy ra tới mức cần cân nhắc không chứ đừng tùy tiện. Trong khuôn viên một nghĩa trang. Mình táng theo hướng nào là do hiểu biết của mình mà chọn chứ đừng câu lệ phụ thuộc vào ai. Điều này nên cần người hiểu giúp đỡ nếu mình hiểu không đầy đủ.
Khi kiến phòng lập táng. Dưới góc độ nhỏ của phong thủy bàn về việc phân kim. Ý nghĩa hai chữ phân kỉm trong dương trạch, thiển ý của tôi cũng không quá phức tạp. Bởi một cung hướng dương trạch có độ số là 15 độ (nói hướng cũng như nói tọa). Nếu phân làm 5 kim (tả hai kim ; chính hướng một kim ; hữu hai kim ), mỗi kim có giới hạn ba độ. Muốn luận về lý khí - phải sắp xếp sao . Bởi nhẽ Loan đầu và lý khí không tương giao (khó chọn ). Nếu xảy ra điều đó, ta phải dùng thế tinh. Khi phải chọn thế tinh (độ lệch chính hướng >3 độ ) thì ý nghĩa của việc phân kim về hướng không còn giá trị lớn về mặt ứng dụng. Ở dương trạch, việc luận về phân kim chỉ còn đơn thuần là việc di dời phương vị mà thôi , nó giúp ta hiểu việc di dời hướng sang trái hoặc sang phải là có lợi – mà điều này luận sao là đủ rõ rồi.
Ỏ âm trạch thì có khác, (việc tìm chọn một chân long huyệt tạm gác chưa bàn tới ). Một ngôi mộ gồm hai phần cụ thể :
- Một là phần xương cốt được gói bọc và cất dấu trong lòng Địa Phủ
- Hai là phần bia mộ được thể hiện ở cõi dương gian. Đương nhiên phần bia mộ luôn đồng hướng với phần xương cốt được gói bọc và cất dấu dưới lòng đất rồi.
Việc xếp sao, luận lý khí như dương trạch, trong đó bao hàm cả ý nghĩa việc phân kim cũng rõ rồi, không cần bàn cãi. Vậy cái điều trăn trở khi lập mộ là gì ?
1) Việc phân kim trong kiến tạo mộ phần còn cần bàn tới là độ sâu nông?
a – Phân kim theo độ sâu nông của địa tầng (thổ nhưỡng )
b – Phân kim theo độ cao thấp của vật chầu chiếu vào huyệt mộ
2 ) Việc sử dụng thước Đinh Lan cổ vào kiến tạo mộ phần như thế nào ?
a– Vào việc xác định kích thước phần bia mộ. hay
b- Vào việc xác định kích thước cái hòm chứa đựng xương cốt (cái tiểu ), hay
c – Vào việc xác định , điều hòa độ sâu nông theo thổ nhưỡng và vật chầu chiếu huyệt mộ
3 ) Việc xác định sơn giới của ngôi mộ ?
Kiến giải tình lý cổ kim việc này có thể cần hàng ngàn trang sách chăng. Phong thủy – môn khoa học thực nghiệm lại chưa có chương nào hướng dẫn chúng ta kỹ năng thực hành cả. Chỉ có những người thầy có kiến thức tích lũy thôi.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

LUẬN VỀ THIÊN KHÔI THIÊN VIỆT

Thiên Khôi, Thiên Việt còn có một tên gọi khác là Thiên Ất Quí Nhân. Những tên gọi này thường dùng trong khoa Tử Bình, ít nhất trong khoa Tử Vi. Cả hai chủ về khoa danh, nhưng còn nên hiểu thêm một ý nghĩa khác nữa như là cơ hội để cho khỏi bị bó hẹp. Nếu Xương Khúc chủ khoa danh rồi thì lại Khôi Việt cũng khoa danh thì ý nghĩa trở thành lẫn lộn. Thật ra cổ nhân có phân biệt, Xương Khúc thì thông minh tài trí, văn chương học vấn, còn Khôi Việt thì tạo đất dụng võ cho thông minh tài trí và văn chương học vấn. Thi cử Xương Khúc có lợi, nhưng ra làm việc Khôi Việt mới thuận. Có câu phú rằng: Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công Xương Khúc hữu Âm Dương nhi đắc lực Nghĩa là Khoa Quyền được Khôi Việt dễ thành công hơn, và Xương Khúc gặp Nhật Nguyệt đắc lực hơn. Thiên Khôi đi theo đường chánh, Thiên Việt đi với dị lộ (dị lộ không phải là đường tà mà là đường khác người). Qua bảng thần thoại theo truyền thuyết Thiên Khôi cầm bút chu sa ghi tên những ai đăng khoa xuất sĩ. Bởi thế khi các sĩ t...