Chuyển đến nội dung chính

Môn - Hộ


Có câu "Thần tranh nhất lô hương ... Nhân tranh nhất khẩu Khí" cho thấy tầm quan trọng của Môn Khẩu (Cửa - Miệng) ... Ngôi nhà nếu nhìn như một Linh Vật sống thì cửa chính là nơi xuất nạp Khí tựa như mũi và miệng của con người ! Phong Thủy trăm Kinh vạn Quyển cuối cùng ở một chữ Khí, xuất khí nạp khí lại chính ở chữ Môn. Trong Kiến Trúc cổ đại phương Đông đặc biệt coi trọng Môn (Cửa) và Hộ (Cửa phụ) ... Phong Thủy và Kiến Trúc xưa xử lý vấn đề nạp Khí, tàng Khí, xuất Khí (Đưa vào, trữ lại, thoát ra) đều dựa vào Môn và Hộ ... Về nguyên tắc, Nhà bao giờ cũng phải có đủ Môn và Hộ, Môn là cửa vào chính, to lớn, có hai cánh, Nạp nhiều hơn Xuất; Hộ là cửa hậu phía sau, một cánh và bắt buộc phải nhỏ hơn Môn chức năng chủ yếu là thoát Khí.
Trình Tự Nạp Khí theo Phong Thủy như sau, Cửa Lớn (Môn) bắt buộc phải có Khí Nạp vào, dù Tốt hay Xấu (Do không còn lựa chọn nào khác) theo Lý Khí vẫn phải có Khí Nạp vào, sau đó tùy theo Lý Khí là xấu hay Tốt người ta sử dụng các phương pháp để điều chỉnh Hóa Sát Tăng Cát cho dòng Khí đi vào nhà, sau khi Khí đã vào Nhà nó phải được tập trung tại một chỗ (Minh Đường - Phòng Khách, Giếng Trời, Sân ...) chỗ được thường được gọi là Nội Minh Đường, sau đó tùy theo từng vị trí từng, công năng, người dùng mà Khí được phân bổ nạp vào các không gian khác nhau, tiếp đến dòng Khí di chuyển xuống phía cuối nhà và thoát ra từ Hộ (Cửa nhỏ 1 cánh ) và vị trí của Hộ thường nằm ở chỗ Khí xấu bắt buộc phải thoát ra. Ngày nay ở kiến trúc đô thị do tận dụng diện tích để xây dựng nên Hộ (Cửa Sau) không còn được coi trọng, có lúc chỉ cần thoát thì lại làm quá to thành ra Môn, Hộ như nhau cả hai cùng Nạp khiến Khí trong nhà xấu tốt hỗn tạp thành ra là Xấu. Không có thoát thì nạp cũng bị hạn chế, việc dẫn Khí cũng hầu như để "Tự Nhiên Nhi Nhiên" ...


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau....

NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN CỦA KIM THẦN THẤT SÁT

Kim Thần Thất Sát được mô tả trong các sách cổ gồm có hai thuyết. Thuyết thứ nhất lấy bảy vị sao trong Nhị Thập Bát Tú là Giác, Cang, Khuê, Lâu, Ngưu, Quỷ, Tinh gọi là Kim Thần Thất Sát. Trong bảy vị sao trên có Cang Kim Long, Ngưu Kim Ngưu, Lâu Kim Cẩu, Quỷ Kim Dương đều thuộc hành Kim. Còn hai sao là Giác Mộc Giao và Khuê Mộc Lang đều thuộc hành Mộc. Sao Tinh Nhật Mã thuộc Thái Dương. Theo thuyết này, ta nhận thấy trong bảy ngôi sao đó, Bốn sao thuộc hành Kim, Hai sao thuộc hành Mộc. Và có hai cát tinh là Giác và Lâu, còn lại năm sao kia là hung. Riêng sao Giác chỉ xấu về việc sửa chữa mồ mả, còn về cưới gả và tu tạo nhà cửa thì lại rất tốt. Vậy tại sao người xưa lại xếp năm sao hành Kim và hai sao hành Mộc là Kim Thần Thất Sát? Đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc gặp sao tốt thì dùng, sao xấu thì tránh là điều đương nhiên, dù nó không phải là Kim Thần Thất Sát cũng không dám dùng. Kim Thần Thất Sát Lập Thành. Thuyết thứ hai cũng...

Bình giảng lá số tử vi trọn đời cho một vị nữ 1987

Nhân sanh Đinh tự biến thành Du Gia thất tiền tài thường đảo lộn Thiến niên lao khổ uổng công phu Trung vận trùng lại phú đắc vinh   Tạm dịch: Chữ Đinh biến thành chữ Du Số nhỏ bịnh tật ốm đau thường thường Lắm lần tai nạn thảm thương Nhờ có hồng phước Phật Trời chở che Lớn lên thông tuệ khác thường Có quyền, có chức, có tài tự nhiên Có chí sáng tác mọi ngành Có tài có đức cầm quyền điểm binh Xét xem qua số nợ duyên Trai đôi ba vợ gái thì truân chuyên Nết na đức hạnh dung hoà Nhưng mà cũng chịu vui buồn chiều mai Cho hay căn số tự trời Duyên đầu lỡ dở hiệp hòa duyên sau Có căn tích thiện tu nhân Tuổi già chung hưởng lộc tài ấm no Âm Nữ Tuổi Đinh Mão ,Chiều Âm Dương Thuận Lý, Mệnh An Tại Mão , Thân An Tại Tị    Lá số có cách cục Mệnh Vô Chính Diệu hội Nhị Không, Mệnh an tại cung Mão nằm trong tam hợp cục địa chi Hợi Mão Mùi có ngũ hành là Mộc cục đương số có tuổi Đinh Mão cùng thuộc tam hợp cục là Mộc cục nên tính chất ngũ hành tam hợp cục Mệnh tương sinh cho ngũ hành tam ...