Chuyển đến nội dung chính

Tử vi đẩu số Thiên Diêu trong bộ Hình Diêu


Nhắc đến Thiên Hình không thể không nhắc tới sao tam hợp là Thiên Diêu. Bộ Hình Diêu Y luôn tam hợp với nhau nên tạo thành một bố cục riêng, đóng tại cung nào mang ý nghĩa cho ngay chính bản cung, từ đó gây tác động cho hai cung còn lại. Việc xét tam hợp có như bản cung có là không hợp lí. Thực ra là sự tác động liên quan tới nhau khác với bản chất của cung. Như Mệnh có Thiên Diêu khác với cung Quan Lộc có Thiên Diêu. Mệnh có Thiên Diêu là cách bản thân có dâm tính trong trường hợp bình thường, nhưng cung Quan Lộc có Thiên Diêu tức cung Mệnh có sao Thiên Hình thường chủ đứng đắn. Nhưng không phải tuyệt đối là như trên, khi mà Thiên Hình và Thiên Diêu tam hợp nhưng ý nghĩa tương đối trái ngược nhau. Trong hai trường hợp Mệnh tạo đều tồn tại cả hai tính cách, trong trường hợp mệnh có Thiên Hình, Quan Lộc có Thiên Diêu một tính cách ngay trong tư tưởng thường trực là sự gò bó, nghiêm khắc của Thiên Hình nhưng khi liên quan đến công danh, địa vị có thể mù quáng, sai lầm vì Thiên Diêu chủ mù quáng. Các sao đóng tại cung nào mang ý nghĩa chuyển hóa tại cung đó. Như việc "Thiên Diêu cư Tài họa đổ sinh ương". Khi đó việc tác động lẫn nhau giữa Hình và Diêu liên tục trong ba thứ quan trọng của Mệnh. Vì vậy mới thường hay đề cập tại tam hợp cũng như của Mệnh, cách gộp này cúng có lợi khiến việc xem được tổng quan. Như việc cung Tài có Hình, cung Mệnh có Kỵ, ba cung Tài Quan Mệnh liên hệ chặt chẽ với nhau hình thành bộ Kỵ Hình, tuy nhiên không xấu bằng cả hai sao Kỵ Hình ngay tại cung Mệnh. Mỗi cung đi với Chính Tinh riêng nên tác động ngay với Chính Tinh để thay đổi tính chất bộ sao. Các chính tinh phối hợp với nhau thành bộ rất chặt chẽ như Sát Phá Tham, Tử Vũ Liêm, Âm Lương,... nếu một sao bị tác động xấu gây xấu đến toàn bộ cách cục. Tuy nhiên nếu không cần luận sâu thì có thể coi đa phần trường hợp tam hợp cũng thuộc Mệnh để luận cát hung. Trong các trường hợp thường đề cập tới cách Thiên Diêu cư Hợi chủ minh mẫn.
" Diêu tại Hợi vi minh mẫn".
Khi Thiên Diêu cư tại Hợi tức Thiên Hình cư tại Mùi cung. Câu phú này chỉ nhắc tới Thiên Diêu tức tại vị trí này Thiên Diêu tốt hơn. Trong Tử vi các cung trong lá số đều tác động thuộc tính ngũ hành lại tới Chính Tinh và Phụ Tinh, tuy nhiên nhiều người lợi dụng để giải thích nhăng cuội, có người giải thích trường hợp này là do cung Hợi là cung thuộc Thủy, Thiên Diêu thuộc Mộc là Thủy sinh Mộc nên tốt là không có căn cứ. Đa phần các câu phú thường chỉ đến một trường hợp khá cụ thể do gia cát tinh nên luận là hay. Thiên Diêu cư Hợi nằm trong bố cục nào đó mới luận là tốt. Tuy nhiên cái quan trọng là Thiên Diêu đi với sao nào, chỉ cần xem tổ hợp các Chính Tinh và bàng tinh đã mất nhiều công sức, và tác động cũng rõ rệt hơn vì ý nghĩa của sao ăn vào tính cách. Thiên Diêu khi xấu là tin tưởng mù quáng, là sao chủ dâm tối, lang chạ, là ưa rượu chè, hút sách. Khi tốt đẹp tượng là hoa sen, là thuần khiết, trong trắng, được ngưỡng mộ vì vẻ đẹp thanh thoát. Thiên Diêu có thêm Phượng Các thì tăng đặc tính tốt, ngộ Kỵ và dâm tinh tăng khuyết điểm.
" Hạn phùng  Cơ Diêu vô phu nan tự khởi cô miên".
Thiên Cơ ngộ Thiên Diêu tăng khuyết điểm, chủ dâm dật mà đầu óc ngu tối, kém thông minh, chủ bại tinh cần Triệt hoặc Khoa để giảm khuyết điểm tăng sức sáng của Thiên Hình nếu không gặp lại kiến Sát Kỵ , khi đó Hình biến hóa tượng chủ sát phạt dẫn đến tai họa, khí lực điều hậu tại Thận không giữ mà tâm cuồng loạn, hỏa vượng, dễ bị trầm cảm, có xu hướng tự sát khi đáo hạn xấu nếu có thêm Kỵ hoặc Hỏa Linh.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ ĐỨC HỢP

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Tuế đức hợp, đúng là can ngũ hợp với Tuế đức. Năm Giáp tại Kỷ, năm Ất tại Ất, năm Bính tại Tân, năm Đinh tại Đinh, năm Mậu tại Quý, năm Kỷ tại Kỷ, năm Canh tại Ất, năm  Tân tại Tân, năm Nhâm tại Đinh, năm Quý tại Quý. Vì vậy, Tuế đức thuộc dương, Tuế đức hợp thuộc âm". Xét Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát, chỉ có nghi, không có kị. Như vậy, cặn kẽ suy ra nghĩa của nó có chia ra cương, nhu riêng biệt. Tuế đức không cần hỏi là năm dương hay năm âm đều là thời cương, Tuế đức hợp không cần hỏi năm âm hay năm dương đều là thời nhu. Việc bên ngoài lấy cương, việc bên trong lấy nhu, đó là ghi chép từ thời cổ. (1) Tuyển trạch gia tuy chưa luận tới như thế, khi dùng có thể lấy ý mà thông vậy. Thích ý Tuế đức với Tuế đức hợp đều thuộc về thượng cát thần, chỉ có nghi, không có kị. Nhưng hai cái đó thì cương nhu không giống nhau. Ấy là Tuế đức là cương, Tuế đức hợp là nhu. Khi dùng có thể căn cứ vào nguyên tắc việc bên ngoài dùng cương, việc bên tron

PHÒNG NGỦ CÓ SÁT KHÍ CHIẾU ĐẾN SẼ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC KHỎE VÀ CON CÁI

Việc bố trí phòng ngủ nói riêng cũng như nội thất của căn nhà nói chung khá phức tạp, nhất là những nhà có diện tích nhỏ hẹp hoặc có kiến trúc dạng ống, bởi trong lý luận phong thủy, bất kỳ căn nhà nào cũng có vượng khí, sinh khí, suy khí và sát khí chiếu đến từng vị trí cụ thể, việc bố trí nội thất cần phải dựa vào đó để giúp gia đạo an khang. Khi xét đến nội thất của căn nhà thì phòng ngủ được coi là vị trí rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tiền đồ của người nằm ngủ trong đó, vì vậy bố trí phòng ngủ cần phải tìm nơi khí sinh vượng, tránh nơi có sát khí chiếu đến. Trong quá trình nghiên cứu và ứng dụng học thuật phong thủy vào đời sống, chúng tôi đã gặp phải không ít trường hợp bố trí phòng ngủ sai với cách cục phong thủy, dẫn đến người nhà bệnh tật triền miên, việc thai sản cũng gặp khó khăn, điển hình là một gia đình sống tại phố Liễu Giai - Hà Nội. Ngôi nhà này xây dựng trong vận 8, tọa Quý hướng Đinh, kiêm Tý - Ngọ 5 độ, diễn số phong thủy như sau: Ngôi nhà có cách

Tử Vi Đẩu Số Thái Tuế Nhập Quái

Thái tuế nhập quái là cách xem do đại sư Tử Vân sáng lập. Cách xem này sử dụng yếu tố ngoại nhập vào lá số tử vi để đoán định. Thông tin ngoại nhập chính là địa chi. Anh tuổi gì ? tôi tuổi dog. Vậy là nạp chi Tuất vào xem. Có bốn tổ hợp tương tác: tuổi với tuổi, cung với tuổi, tuổi với cung và cung với cung.  Để tìm được yếu tố cung, bắt buộc phải có lá số trong tay. Nếu chỉ biết được tuổi của người đó thì không thể xem được theo phương pháp cung-cung. Còn trong dân gian thì hay hỏi ai đó tuổi gì, rồi đối chiếu với nhau. Như tuổi mão xung tuổi dậu. Cách xét tương tác tuổi với tuổi không sai, nhưng thô thiển. Nói cách khác, nếu lá số tử vi lập ra từ 5 yếu tố: năm tháng ngày giờ và giới tính. Thì cách lấy tuổi xét tương tác chỉ lấy địa chi của năm sinh, đương nhiên thô thiển. Cho nên mức độ chính xác có phần giới hạn. Quay lại cách xem thái tuế nhập quái của Tử Vân. Nói đơn giản là với lá số đó, thì khi nhập tuổi khác lên các cung, xét được tương tác của chủ nhân lá số với tuổi đó như th